Lễ hội trong xã hội đương đại, "hành trang hay gánh nặng"...

Như một lời hẹn trước, bắt đầu mỗi mùa xuân là bắt đầu một mùa lễ hội, và cũng bắt đầu xuất hiện dày đặc trên các trang báo về những điều được và chưa được của lễ hội. Tiếng nói ủng hộ cũng nhiều mà những lời phê phán, chỉ trích cũng không ít. Vậy, trong xã hội đương đại, lễ hội truyền thống là hành trang hay là gánh nặng của con người?

Trước hết, những tiêu cực trong các lễ hội trong thời gian gần đây liên tục được đăng tải trên các phương diện truyền thông đại chúng. Nào là lễ hội gây tốn kém thời gian, tiền bạc của người dân, của xã hội. Ðó là hiện tượng vàng mã được đốt tràn lan trong các lễ hội. Ðó là hiện tượng người dân đi lễ hội 'găm', 'nhét' tiền của Ngân hàng nhà nước vào tay các tượng trong các di tích một cách tùy tiện, vô ý thức. Ðó là tình trạng chen lấn, xô đẩy nơi hội đền Trần đêm 14 tháng giêng tại Nam Ðịnh để tranh giành giấy có dấu ấn của nhà Trần, v.v. Chưa kể, những hiện tượng như mất vệ sinh trong thực phẩm được bày bán ở lễ hội, bắt chẹt giá tiền dịch vụ trong gửi xe, trong mua đồ ăn, thức uống, v.v. Những tiêu cực này khiến cho không ít người có cảm giác lễ hội là gánh nặng của quá khứ đè nặng trên đôi vai thế hệ hôm nay. Là một bộ phận đặc biệt của văn hóa dân gian nước ta, các lễ hội truyền thống như một bảo tàng tâm linh, chứa đựng những khát vọng thiết tha mãnh liệt của người nông dân trong xã hội cổ xưa, rất đời, mà cũng rất cao cả thiêng liêng, nhưng lại rất thực. Lắng đọng trong các lễ hội dân gian là tín ngưỡng bản địa của người dân ở một nước nông nghiệp, được gởi gắm trong nhân vật phụng thờ, trong trò diễn, lễ thức. Những tín ngưỡng ấy là tín ngưỡng dân dã, có khi có từ rất xưa, nhưng cũng có khi được hội nhập sau này, cho chúng ta tiếp cận thế giới tâm linh của người nông dân Việt Nam, dù họ là tộc người nào. Trước hết, cần thấy lễ hội dân gian là một bảo tàng văn hóa, nơi lưu giữ những tín ngưỡng, tôn giáo, những sinh hoạt văn hóa văn nghệ dân gian, nơi phản ánh tâm thức người Việt Nam, dù là tộc người nào, một cách trung thực nhất. Không có tín ngưỡng, không thành lễ hội. Tín ngưỡng của lễ hội dân gian Việt Nam được biểu hiện dưới nhiều dạng như: thờ cúng Thành hoàng, thờ Mẫu, thờ cúng tổ tiên, thờ cúng các ông tổ nghề... của người Việt, thờ cúng Thần Nông của đồng bào các dân tộc phía bắc, thờ cúng Giàng của người thiểu số Tây Nguyên. Ngoài ra, các tín ngưỡng dân gian còn tiềm ẩn trong trò diễn như tín ngưỡng thờ mặt trời, mặt trăng, thần nước... Sự tiềm ẩn đó khiến chúng ta khó nhận diện các tín ngưỡng cổ xưa ấy.

Quan sát diện mạo các lễ hội dân gian từ bắc vào nam, từ lễ hội dân gian của người Việt đến lễ hội dân gian của đồng bào các dân tộc thiểu số, không thấy lễ hội dân gian nào mở ra mà lại không gắn bó với một hay nhiều các nhân vật được phụng thờ. Làng mở hội để thờ thần, để trình thánh, v.v. là câu nói quen thuộc của người dân chốn dân dã. Nhân vật phụng thờ có thể gắn với tục thờ thành hoàng, tục thờ mẫu, tục thờ ông tổ nghề, v.v.

Cùng với các tín ngưỡng này, trong lễ hội dân gian còn có những tín ngưỡng của một thời xưa, xưa lắm. Thời gian trôi qua, dấu vết của những tín ngưỡng này lắng đọng trong các lễ nghi, trò diễn của lễ hội. Với người dân, các tín ngưỡng này tàng ẩn trong cõi sâu thẳm của ý thức: cả tiềm thức lẫn vô thức. Nền văn minh Trung Hoa, Ấn Ðộ nhập vào Việt Nam vẫn không làm phai nhạt được những tín ngưỡng dân dã này. Ở một phương diện nào đó, có thể coi tín ngưỡng ấy như là tôn giáo sơ khai của cư dân nông nghiệp, nói khác đi là những tín ngưỡng bản địa như tín ngưỡng phồn thực, tín ngưỡng thờ mặt trời, mặt trăng, v.v.

Ðã thành một cái nhìn quen thuộc, người ta chia hội lễ thành hai phần: phần hội và phần lễ. Hội là sự tập hợp đông người trong đó các thành viên của cộng đồng, cùng nhau sinh hoạt tập thể, cùng nhau gắn bó trong một niềm cộng cảm. Phần lễ là những nghi thức mang ý nghĩa nhất định và bao giờ cũng là sự biểu hiện cách điệu hóa những nội dung đã làm nên niềm cộng cảm kia. Tách ra một cách tương đối như vậy, chứ cả hai phần ấy của lễ hội truyền thống gắn bó với nhau một cách hài hòa, chặt chẽ, trong một dạng tồn tại nguyên hợp. Và tín ngưỡng ẩn tàng trong cả lễ hội như một phần âm tính của văn hóa, một bộ phận của văn hóa. Khó có thể nói đến một lễ hội dân gian mà không đề cập đến tín ngưỡng trong lễ hội này. Không có tín ngưỡng, không thành lễ hội, bởi lẽ, chủ nhân đích thực của lễ hội dân gian là những người nông dân, sống trong lũy tre xanh với nghề trồng lúa nước. Vòng quay tuần tự của thiên nhiên và mùa vụ khiến cho người nông dân có những nhu cầu tâm linh nhất định. Lễ hội dân gian là nơi chứa đựng, nơi giải tỏa những ước muốn tâm linh của người nông dân.

Tuy nhiên, không tránh khỏi hiện tượng mê tín xuất hiện trong các lễ hội dân gian. Bởi lẽ, tín ngưỡng và mê tín cùng song hành tồn tại trong trường kỳ lịch sử, cũng chẳng riêng gì với lễ hội dân gian. Nếu lễ hội dân gian có một diện mạo tín ngưỡng tổng thể thì trên mặt cắt đồng đại hiện tại, trong lễ hội dân gian không phải không có những yếu tố phi tín ngưỡng. Nói cách khác, đó là mê tín. Thật ra, tự bản chất, mê tín là 'sự' không biện ra được thị phi, nhắm mắt mà tin mù' (1), là người bạn song hành của tín ngưỡng. Chưa kể, những yếu tố mê tín ký sinh vào các lễ hội dân gian, sống cùng tín ngưỡng như một nhánh tầm gửi trên một thân cây tươi tốt.

Mặt khác, cần thấy có những yếu tố mê tín ký sinh vào di tích, vào lễ hội dân gian. Nói là yếu tố ký sinh bởi lẽ những hiện tượng ấy không gắn bó với đường dây tín ngưỡng của lễ hội dân gian ở cả hai dạng: dạng nổi và dạng chìm, nhưng lại xuất hiện ở các di tích và lễ hội dân gian. Trước hết, cần phân biệt những hiện tượng mượn di tích là nơi hành nghề, không cứ tới lễ hội mới có. Không bao giờ những hiện tượng ấy được coi là một thành tố của lễ hội dân gian. Nét chung của những hiện tượng này là những người hành nghề đã mượn, đã dựa vào niềm tin dân dã của con người với cõi siêu linh để mưu lợi cho mình, để buôn thần bán thánh.

Sau nữa là những yếu tố ký sinh vào lễ hội dân gian mà không phải là một thành tố trong kết cấu chặt chẽ của chính lễ hội dân gian. Nghĩa là, nó có thể ở hội này, lại cũng có thể có ở hội khác, không phải là hiện tượng chỉ có ở một lễ hội. Chẳng hạn, hình thức xin xăm, xin keo, gieo quẻ âm dương. Hình thức này không phải chỉ có ở một lễ hội dân gian nào. Trong các ngôi chùa Hoa ở thành phố Hồ Chí Minh, đồng bằng sông Cửu Long, đều có hình thức này. Tại các đền thờ Mẫu ở châu thổ sông Hồng, cũng có hiện tượng này. Ranh giới giữa sự tin tưởng một thần linh, tới cầu xin vị thần ấy đoán định vận mệnh cho mình qua một lá số đã định sẵn, quả là đã có sự 'quá ngưỡng.

Ngoài ra, còn có các hiện tượng khăn bùa, áo dấu, uống nước rửa tượng thánh, tượng thần trong ngày mộc dục của các lễ hội dân gian. Tất cả những hiện tượng ấy, không nằm trong trục tín ngưỡng, chỉ là những nhân tố ký sinh, có mặt rất muộn trong lễ hội dân gian. Thực tế cho thấy không có những hiện tượng ấy, lễ hội truyền thống không mất đi giá trị văn hóa tín ngưỡng của mình.

Tóm lại, ranh giới giữa tín ngưỡng và mê tín thật ra rất mỏng manh, bởi đó đều là những yếu tố của đời sống tâm linh con người. Tuy nhiên, vẫn có những yếu tố mê tín được đan cài trong các lễ hội dân gian dưới dạng mượn di tích là nơi hành nghề, dạng ký sinh vào lễ hội. Vấn đề đặt ra là phải gạn đục khơi trong, để phần trong của di sản, của lễ hội trở thành nhân tố hướng thiện cho con người.

Hơn nữa, trong kho tàng di sản văn hóa phi vật thể của 54 tộc người, lễ hội truyền thống là tài sản văn hóa có tiềm năng nhất trong việc trở thành tài sản du lịch, phục vụ cho sự phát triển của ngành du lịch. Cả khách nội địa lẫn khách nước ngoài, lễ hội truyền thống luôn luôn là thành tố văn hóa cuốn hút và hấp dẫn du khách. Tự sâu thẳm tâm thức, người nông dân Việt Nam vẫn có một nhu cầu đi hội, để thực thi những tín ngưỡng dân dã, để cầu mong một cuộc sống bằng an cho chính bản thân, cho cộng đồng, cho gia đình. Tiếng gọi của lễ hội dân gian vào mùa xuân vẫn là tiếng gọi da diết, một lời mời không dễ chối từ. Lễ hội truyền thống, dù của tộc người nào, đều chứa đựng tất cả những khát vọng, những ước muốn tâm linh vừa trần tục vừa thiêng liêng, vừa thiết tha, vừa mãnh liệt của mọi người dân, mọi thời đại. Như vậy, không thể không ghi nhận rằng lễ hội truyền thống là hành trang của con người đương đại, cùng con người đương đại đi tới tương lai.

------------

(1) Ðào Duy Anh, Hán Việt Từ điển, in lần 3, Trường thi xuất bản, Sài Gòn, 1957, tập thượng, tr. 554.

Có thể bạn quan tâm