Ký ức hào hùng về trận Stalingrad

Trận Stalingrad (từ ngày 17-7-1942 đến ngày 2-2-1943) là trận đánh khốc liệt và dữ dội nhất trong Chiến tranh vệ quốc vĩ đại của Liên Xô (trước đây) và gắn liền với tên tuổi của Georgy Zhukov, Aleksandr Vasilevsky. Với cấp bậc Đại tướng và lập nhiều chiến công hiển hách, Zhukov được phong Nguyên soái vào ngày 18-1-1943 khi gần kết thúc trận Stalingrad; còn Vasilevsky được phong Nguyên soái vào ngày 16-2-1943 chỉ ít ngày sau khi trận Stalingrad kết thúc.

Một chiến sĩ Hồng quân giương cao ngọn cờ chiến thắng trong trận Stalingrad. Ảnh tư liệu
Một chiến sĩ Hồng quân giương cao ngọn cờ chiến thắng trong trận Stalingrad. Ảnh tư liệu

Âm mưu của Hitler

Ngày 22-6-1941, quân đôi phát-xít Đức và đồng minh “phe trục” tiến công Liên Xô, do chiếm ưu thế quân sự nên nhanh chóng chiếm được vùng Pri-Baltic, Belarus, Ukraine, Moldova và tiến nhanh đến Thủ đô Moscow. Khi đó, mặt trận Xô - Đức tập trung đến 80% quân số của phát-xít Đức và đồng minh.

Theo phân tích của Tổng Tham mưu trưởng Hồng quân Liên Xô Aleksandr Vasilevsky, đầu năm 1942, sau khi không chiếm được Moscow và bị thiệt hại nặng nề, Hitler bỏ kế hoạch “chiến tranh chớp nhoáng” và chuyển hướng tiến công về phía nam với “Chiến dịch Blau” nhằm “giành lại thế chủ động và tiêu diệt sinh lực còn lại của Liên Xô”. Mục tiêu trước mắt là tiến chiếm vùng mỏ dầu Baku, vựa lúa mì sông Đông - Kuban để “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh” và đánh vu hồi Moscow. Xa hơn, Hitler muốn tiến quân vào Caucasus với âm mưu lôi kéo Thổ Nhĩ Kỳ đánh Liên Xô và tiến sâu vào Trung Đông chiếm lấy “túi dầu” của thế giới.

Stalingrad, trước đó có tên là Tsaritsyn, tới năm 1925 được đặt theo tên của lãnh tụ tối cao của Liên Xô lúc bấy giờ là Iosif Stalin. Chiếm được Stalingrad, Hitler mong muốn đánh gục Liên Xô về mặt tinh thần. Bên cạnh đó, Stalingrad lại nằm trên con đường dẫn đến Caucasus ở phía nam và là trạm huyết mạch đến phía bắc Liên Xô nên Hitler cho rằng cần phải chiếm lấy thành phố này.

Ngày 17-7-1942, một tập đoàn quân phát-xít Đức do Friedrich Paulus chỉ huy tiến công vào Stalingrad. Ngày 23-8-1942, được tăng cường thêm một tập đoàn quân xe tăng, quân phát-xít Đức lọt vào thành phố. “Không lùi một bước”, đó là lời kêu gọi của lãnh tụ tối cao Iosif Stalin. Ngày 13-9-1942, Hồng quân có lúc chỉ còn giữ được một khu đất rộng 700 m2 trong thành phố. Thiếu úy Hồng quân Vaxili Daiev lúc đó đã kêu gọi: “Quyết không lùi bước. Đối với chúng ta, phía sau sông Volga không còn đất nữa”. Tập đoàn quân số 62 của Hồng quân với 47.000 binh sĩ còn lại bảo vệ thành phố và quyết không để bất cứ tên phát-xít nào chạm được tới bờ sông Volga. Cả nước huy động tất cả cho Stalingrad, những người dân thường của thành phố cũng cầm súng bảo vệ thành phố và phục vụ quân sự.

Từ lúc đầu chỉ có 13 sư đoàn với khoảng 27 vạn quân, đến cuối tháng 9-1942, tại hướng Stalingrad đã có 80 sư đoàn quân Đức và các đồng minh Hungary, Italia và Romania. Hitler hạ quyết tâm phải chiếm được Stalingrad nhưng không thành công.

Hồng quân phản công

Mùa thu năm 1942, Phó Tổng Tư lệnh Tối cao Zhukov được Đại bản doanh Bộ Tổng Tư lệnh Tối cao Liên Xô điều động đến làm Tư lệnh Mặt trận Stalingrad. Tổng Tham mưu trưởng Vasilevsky cũng được tăng cường đến. Và đến đầu tháng 11-1942, Đại bản doanh Bộ Tổng Tư lệnh Tối cao Liên Xô quyết định phản công bởi mùa đông khắc nghiệt ở nước Nga đã đến và quân phát-xít Đức cùng đồng minh đã bị sa lầy như trận Moscow năm 1941.

Trong hồi ký “Nhớ lại và suy nghĩ” của mình, Zhukov nhớ lại: “Đầu tháng 11-1942, phát-xít Đức đưa vào mặt trận Xô - Đức tới 266 sư đoàn, tức gần 6,2 triệu quân, với hơn 70.000 khẩu pháo và cối, 6.600 xe tăng và pháo tiến công, 3.500 máy bay chiến đấu và 194 tàu chiến. Cũng ở thời điểm ấy, bộ đội tác chiến của Liên Xô có 6,1 triệu người với 72.500 pháo và cối, 6.014 xe tăng và pháo tự hành, 3.088 máy bay chiến đấu. Trong đó, đội dự bị chiến lược của Đại bản doanh có 25 sư đoàn bộ binh, 12 quân đoàn xe tăng và cơ giới, bảy lữ đoàn bộ binh độc lập và xe tăng.

Như vậy, đến những ngày kết thúc thời kỳ đầu của chiến tranh, tương quan lực lượng đã bắt đầu thay đổi có lợi cho Liên Xô. Bên cạnh đó, Zhukov cũng nhận định: “Quân của Hitler đã bị thiệt hại vô cùng nặng nề và đến lúc này mất hẳn khả năng tiến công. Quân của chúng căng ra từ Biển Đen qua Bắc Caucasus, Stalingrad, sông Đông…, thiếu hẳn những đội dự bị chiến lược rảnh rang để có thể tự do sử dụng ở tiền tuyến lẫn hậu phương”. Đặc biệt, Zhukov đánh giá đúng về tinh thần của quân phát-xít đang “sa sút”, mất dần ý chí chiến đấu.

Trước tình hình đó, 11 tập đoàn quân cùng nhiều quân đoàn, lữ đoàn xe tăng, cơ giới, kỵ binh và nhiều đơn vị độc lập với 13.500 pháo và cối, hơn 1.000 pháo phòng không, 11 tiểu đoàn pháo phản lực, gần 900 xe tăng, 1.115 máy bay được chuẩn bị cho trận phản công tại Stalingrad. Từ ngày 1 đến 19-11-1942, Hồng quân đã đưa qua sông Volga 160.000 chiến sĩ, 16.000 ngựa, 430 xe tăng, 600 khẩu đại bác, 12.000 xe quân sự, 7.000 tấn đạn. Trong khi đó, quân phát-xít Đức ở trận Stalingrad lúc này có khoảng một triệu lính, hơn 10.000 pháo và cối các loại, 675 xe tăng và pháo, 1.216 máy bay nhưng có nhiều yếu tố bất lợi.

Sau chiến tranh, Tham mưu trưởng chỉ đạo tác chiến của phát-xít Đức thừa nhận với Zhukov: “Chúng tôi tuyệt nhiên không tưởng tượng được sức mạnh của Hồng quân trong khu vực này. Trước đó, ở đây không có gì hết. Vậy mà bất thình lình chúng tôi bị giáng một đòn mạnh có ý nghĩa quyết định”. Tất cả lực lượng của Hồng quân chia làm Phương diện quân Tây - Nam, Phương diện quân Stalingrad, Phương diện quân sông Đông đã tiến công và bao vây quân địch ở Stalingrad. Đến tháng 1-1943, các kho dự trữ của phát-xít Đức và đồng minh đã cạn, khẩu phần ăn cho binh sĩ không đủ, các bệnh viện chật ních thương binh, bệnh binh và xác chết.

Nguyên soái Georgy Zhukov. Ảnh tư liệu

Ngày 30-1-1943, nhân “kỷ niệm” 10 năm Đảng Quốc xã lên cầm quyền ở Đức, Hitler phong cho Paulus quân hàm Thống chế đồng thời nhấn mạnh rằng, từ trước tới nay chưa có một Thống chế Đức nào đầu hàng quân địch. Nhưng ngày 31-1-1943, Paulus đã tuyên bố đầu hàng Hồng quân. Đến ngày 2-2-1943, quân Đức và đồng minh ở Stalingrad đã đồng loạt treo cờ trắng xin hàng. Chiến thắng đã thuộc về Hồng quân Liên Xô. Hồng quân đã tiêu diệt 32 sư đoàn và lữ đoàn địch, 16 sư đoàn còn lại bị mất từ 50-70% quân số và bắt sống 91 nghìn tên phát-xít, trong đó có 2.500 sĩ quan và 24 tướng lĩnh. Như vậy, gần một phần tư quân số phát-xít Đức và đồng minh trên toàn chiến trường Xô - Đức đã bị tiêu diệt. Ngày 3-2-1943, Bộ Tổng tham mưu Đức ra một bản tin đặc biệt: “Trận đánh Stalingrad đã kết thúc”. Hitler chấp nhận thất bại và tuyên bố “quốc tang” bốn ngày.

Trong Hồi ký “Sự nghiệp và cuộc đời”, Nguyên soái Vasilevsky nhận định: “Trận bảo vệ Stalingrad đánh dấu bước ngoặt căn bản trong Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại và cuộc chiến tranh thế giới nói chung”. Đúng như nhận định trên, sau trận Stalingrad, Hồng quân Liên Xô đã chủ động tiến công quân phát- xít, quét chúng ra khỏi lãnh thổ và truy kích tới tận sào huyệt. Hitler phải tự sát, trục phát-xít Đức - Itailia - Nhật sau đó đã bị đánh bại hoàn toàn.

Để vinh danh chiến dịch phòng thủ kiên cường tại Stalingrad, Nhà nước Liên Xô đã trao tặng Huân chương “Vì sự nghiệp bảo vệ Stalingrad” cho hơn 700.000 người tham gia; 55 đơn vị được nhận huy chương và 183 đơn vị được phong tặng danh hiệu “Cận vệ”; 10.000 quân nhân và sĩ quan Hồng quân Liên Xô được tặng thưởng huân chương, 112 chiến sĩ được phong danh hiệu Anh hùng Liên Xô. Ngày 1-5-1945, thành phố Stalingrad được trao danh hiệu “Thành phố Anh hùng”.