Hoàng liên mọc hoang ở nhiều vùng núi cao như Lào Cai, dãy núi Hoàng Liên Sơn, khu Tây Bắc và thu hoạch vào mùa đông (tháng 11-12). Người ta đào rễ, rửa sạch, phơi hay sấy khô để dùng.
Ở nước ta còn có Hoàng liên gai, dân gian gọi là hoàng mù, hoàng mộc. Tên khoa học là Berberis wallichiana DC. Thuộc họ Hoàng liên gai Berberidaceae. Cây mọc bụi, cao hai đến ba mét, có những cành vươn dài, vỏ thân mầu vàng xám nhạt, mỗi đốt, dưới chùm lá có gai ba nhánh, dài 1-1,5 cm. Hoa mầu vàng, mọc thành chùm. Cây thường mọc hoang ở vùng núi Sa Pa và một số vùng núi cao Lào Cai. Thu hái thân cây và rễ cây, sau đó rửa sạch, cắt ngắn phơi hoặc sấy khô làm thuốc.
Ngoài ra trong y học dân gian ta còn thấy một loại Hoàng liên nữa gọi là Hoàng liên ô rô gọi là thập đại công lao. Tên khoa học Mahonia bealii Carr, thuộc họ Hoàng liên gai Berberidaceae. Cây nhỏ cao ba đến bốn mét, không cành có gai. Lá kép dìa lẻ, dài 30 cm có hai gai nhỏ ở phía cuống lá, năm đến bảy lá chét hình trứng. Hoàng liên ô rô đầu nhọn sắc, phía cuống tròn, dài 6-10 cm, rộng 20-45 mm, mỗi bên ba đến tám răng sắc ngắn dài 3-6 mm. Cụm hoa tận cùng mọc thành bông, phân cành ở dưới, nhiều hoa... Cây mọc hoang ở vùng núi cao lạnh, thường gặp ở ven rừng một số núi cao như Lang biang (Lâm Ðồng) và Phan-xi-păng (Lào Cai). Quả thu hái về mùa hạ. Thân và lá thu hái quanh năm, rửa sạch, phơi khô.
Theo y học phương Ðông, tính vị của Hoàng liên: vị đắng, tính hàn vào năm kinh: tâm, can, đởm, vị, đại trường. Có tác dụng tả hỏa, trừ táo thấp, giải độc, chữa sốt, nôn ra máu, tiêu khát... Ðây là cây thuốc dân gian được dùng đã lâu đời. Ðặc biệt là Hoàng liên chữa lỵ rất hiệu quả. Ngày uống 3-6 g chia làm ba lần uống. Thời gian điều trị 7-15 ngày là bệnh thuyên giảm rõ rệt.
Hoàng liên gai chữa lỵ với liều dùng 4g- 6g pha 150 ml nước, sắc uống trong ngày, có thể pha thêm ít đường cho dễ uống. Hoàng liên ô rô với liều dùng mỗi ngày 4-12 g dưới dạng thuốc sắc hay thuốc bột và để chữa lỵ các chúng ăn không tiêu.