Trị giá có đồng nghĩa với giá trị?
Cũng trong phiên đấu giá nói trên, được bán với giá cao nhất là tác phẩm Mao Trạch Đông của họa sĩ tiền phong người Mỹ Andy Warhol (1928 - 1987). Với khung giá dự kiến từ 90 triệu đến 120 triệu HKD, bức tranh đã đạt mức 98.537.500 HKD. Trước đó, bức tranh này đã qua ít nhất hai phiên đấu giá tại Sotheby’s. Phiên gần nhất tại Sotheby’s London (Anh) diễn ra ngày 12-2-2014, Mao Trạch Đông đã được mua với giá 7.586.500 bảng Anh, tương đương 75 triệu HKD. Vậy là chỉ sau hơn ba năm, bức tranh đã gia tăng trị giá xấp xỉ 23,5 triệu HKD, tương đương ba triệu USD.
Trở lại với Lê Phổ, một họa sĩ xuất thân từ khóa đầu tiên của Trường cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương (tiền thân của Đại học Mỹ thuật Việt Nam hiện nay), tranh của ông đang có mức giá ngày càng tăng. Ngày 16-4-2006, trong một phiên đấu giá hội họa Đông - Nam Á của nhà Sotheby’s ở Singapore, bức Hoài cố hương (Nostalgie, mực và bột mầu trên lụa, 60,5 x 46 cm, 1938) được mua với giá 360 nghìn SGD (tương đương 260 nghìn USD, theo tỷ giá hiện tại), trong khi giá ước chừng từ 300 nghìn đến 500 nghìn SGD. Ngày 6-4-2013, cũng trong phiên đấu giá hội họa hiện đại và đương đại Đông - Nam Á ở Hồng Công của nhà Sotheby’s, bức Thiếu nữ rót trà (Elegant Lady pouring tea, 61 x 45 cm, mực và bột mầu trên lụa), vốn được định giá từ 1,1 triệu đến 1,6 triệu đô HKD đã bán được 2,32 triệu HKD (tương đương 300 nghìn USD, tính theo tỷ giá hiện tại). Phiên đấu giá vừa qua với mức giá 1,17 triệu USD cho thấy, tranh Lê Phổ hoàn toàn là một bảo chứng đầu tư có lợi nhuận không nhỏ.
Lúc sinh thời, nhà sưu tập Lê Thái Sơn từng lý giải rõ ràng về sức ảnh hưởng và khả năng sinh lời của tranh Lê Phổ. Từ đầu thập niên 1960, tranh của ông đã “lọt mắt xanh” hệ thống gallery nhà Findlay (Wally Findlay galleries, thành lập năm 1870) và được họ mua đến cả nghìn bức, gần như độc quyền. Uy tín của địa chỉ này chính là con dấu bảo chứng cho sự đầu tư đúng đắn của giới đầu cơ, sưu tập mỹ thuật. Từ hệ thống gallery danh giá ấy, tranh của Lê Phổ được đưa đến các nhà đấu giá và mạng lưới gallery chuyên nghiệp ở châu Âu cũng như các quốc gia châu Á như Hàn Quốc, Thái-lan, Singapore...
Tất nhiên, không phải lúc nào giá tranh của Lê Phổ cũng chỉ có tăng, không giảm. Ngay sau phiên đấu giá “triệu đô” kể trên, trong một phiên đấu giá ngày 3-4 cũng tại Sotheby’s Hồng Kông, tranh của ông cũng có những bức không bán được hoặc bán thấp hơn mức dự kiến. Tác phẩm Người đàn bà ngồi đan (sơn dầu trên lụa, 61,5 x 38cm, vẽ trong những năm 1960) có mức giá dự kiến từ 180 nghìn đến 280 nghìn HKD nhưng chỉ bán được ở mức 225 nghìn HKD.
Mặc dù vậy, nhìn vào biểu đồ giá trị tổng quan của tranh Lê Phổ, có thể thấy tác phẩm của ông thường có xu hướng tăng giá, thậm chí là tăng khá nhanh. Theo nhà nghiên cứu Ngô Kim Khôi (Paris, Pháp), mức giá hơn một triệu USD của tranh Lê Phổ sẽ là “cột mốc hướng tới cho thị trường mỹ thuật nội địa noi theo”. Ông còn tiên đoán, “sẽ có những tác phẩm rất hiếm hoi trên thị trường của Nam Sơn, Thang Trần Phềnh, Nguyễn Đức Thục... (những họa sĩ thuở ban đầu của mỹ thuật Việt Nam hiện đại - NV) đạt những bước giá không ngờ tới”.
Cần lắm sự đầu tư của chính người Việt
Trên thực tế, nhiều ý kiến cho rằng, các bước tăng trị giá của tác phẩm mỹ thuật phụ thuộc nhiều vào giới đầu tư - sưu tập của nước chủ nhà. Nhà nghiên cứu Ngô Kim Khôi cũng chia sẻ một nhận định về sự ảnh hưởng của tình hình mỹ thuật nội địa đến giá tranh Việt Nam trên thế giới: “Thực ra, mỹ thuật Đông Dương từ lâu đã có chỗ đứng đặc biệt trên đài danh vọng mỹ thuật quốc tế. Từ thập niên 1930, khi ngài Victor Tardieu (Hiệu trưởng đầu tiên của Trường cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương) đưa tác phẩm của họa sĩ thời kỳ này tham dự các triển lãm hoàn cầu, tranh của Nam Sơn, Lê Phổ, Lê Văn Đệ, Nguyễn Phan Chánh... luôn tạo được tiếng vang rất tốt cho Việt Nam. Chỉ từ những năm 2000, mỹ thuật nước nhà mang tiếng xấu vì vấn nạn tranh giả, tranh nhái nên giá bán bị tuột dốc không ngờ”. Việc giới tài phiệt Trung Quốc đầu tư cho mỹ thuật nước này, từ đó đẩy giá tranh Trung Quốc tại các phiên đấu giá quốc tế lên con số bảy triệu USD từ năm 2008 cũng được xem như một thí dụ điển hình cho thấy tác động mạnh mẽ của yếu tố thị trường nội địa tới trị giá và giá trị của tác phẩm hội họa trên trường quốc tế. Những tác động này đang manh nha xuất hiện ở Việt Nam, thông qua việc một số nhà buôn, người Việt sưu tập trong nước thường xuyên theo dõi, tham gia các phiên đấu giá quốc tế và từ đó, mua được một số tác phẩm đáng chú ý của họa sĩ Việt Nam, từ đó giúp “châu về hợp phố”.
Tuy nhiên, vấn nạn tranh giả vẫn hoành hành và cho đến nay, vẫn chưa có một chế tài đủ mạnh để giải quyết triệt để. Đây chính là vấn đề nan giải nhất, góp phần quan trọng khiến cho chỗ đứng của mỹ thuật Việt Nam trên thị trường quốc tế còn quá đỗi khiêm tốn. Sự kiện Những bức tranh trở về từ châu Âu trong sưu tập mỹ thuật Việt của một người Việt, được trưng bày tại Bảo tàng mỹ thuật TP Hồ Chí Minh, năm 2016, có trà trộn tranh thật - giả đã khiến cho không chỉ dư luận trong nước mà cả quốc tế phải lên tiếng. Có lẽ, tiếp sau sự ồn ào, để rồi rơi vào im lặng này, là câu chuyện chưa có hồi kết về “lượng tranh Bùi Xuân Phái đang xuất hiện ngày càng nhiều sau khi ông mất” cho thấy Việt Nam vẫn còn thiếu các công cụ pháp lý đủ mạnh để trừng phạt, làm kiềm chế lòng tham của những kẻ cố tình giả mạo nhằm trục lợi trong lĩnh vực này.
Một vấn đề đáng chú ý khác là trong khi giá sáng tác của các họa sĩ đương đại trong khu vực Đông - Nam Á hay Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản đều có giá lên đến hàng triệu đô-la Mỹ thì mỹ thuật đương đại Việt Nam chưa hề đạt tới thành công này. Ngoài Lê Phổ, chỉ một vài tên tuổi thời kỳ đầu của Trường cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương như Vũ Cao Đàm, Mai Trung Thứ... được các nhà đấu giá uy tín trên thế giới và khu vực quan tâm thường xuyên. Còn lại hầu hết các họa sĩ, điêu khắc gia và nghệ sĩ đương đại đều không hoặc chưa có cơ hội được thấy sáng tác của mình hiện diện trong những phiên đấu giá đình đám. Thực tế này phải chăng chỉ có thể được thay đổi bởi thái độ dũng cảm, dám mạo hiểm đầu tư của chính người Việt dành cho mỹ thuật của đất nước mình, với các bước đi được hoạch định một cách chuyên nghiệp?
Trị giá của một tác phẩm mỹ thuật không chỉ hoàn toàn dựa vào chất lượng nghệ thuật mà đơn giản hơn, bởi tác phẩm ấy được nằm trong “một kênh thương mại tốt”, như ý kiến của nhà phê bình mỹ thuật Nguyên Hưng. Nhưng nếu một nền mỹ thuật không chỉ dừng lại ở duy nhất một bức tranh có giá trên một triệu USD, ắt hẳn giá trị của nền mỹ thuật đó sẽ ở một tầm mức khác trên trường quốc tế. Hy vọng ấy cho mỹ thuật đương đại Việt Nam - với rất nhiều thế hệ nghệ sĩ tài năng sau thời kỳ Mỹ thuật Đông Dương - là hoàn toàn có cơ sở.
| Tính chất ảo diệu và huyễn hoặc của một tác phẩm mỹ thuật đem lại giá trị thẩm mỹ và trị giá của nó là không thể đong đếm, tùy thuộc vào cảm nhận của từng cá nhân thưởng lãm. Song những thông số về trị giá của nó lại rất cụ thể, đem lại cho người đầu tư một khoản lợi nhuận cụ thể và cho một nền mỹ thuật những danh tiếng cụ thể. Có thể tranh của Lê Phổ chưa phải là những tác phẩm quan trọng và vô giá của mỹ thuật Việt Nam hiện đại nhưng trị giá của một vài trong số đó hiện ở vị trí hàng đầu của nền mỹ thuật của chúng ta. Đó là một giá trị không thể phủ nhận. |
| Theo nhà nghiên cứu Ngô Kim Khôi (Paris, Pháp), mức giá hơn một triệu USD của tranh Lê Phổ sẽ là “cột mốc hướng tới cho thị trường mỹ thuật nội địa noi theo”. |