Nhiều công ty xin cấp phép
DSM là một hoạt động tương đối mới và gây tranh cãi liên quan việc khai thác các loại khoáng sản khác nhau như đồng, vàng và mangan trong môi trường biển sâu. Những tài nguyên này chủ yếu được tìm kiếm để sử dụng trong các ngành công nghiệp bao gồm điện tử, năng lượng tái tạo và sản xuất công nghiệp. Đã có nhiều dự báo DSM sẽ là “cuộc cách mạng công nghiệp” tiếp theo trong quá trình chuyển đổi năng lượng.
Hai năm trước, CH Nauru - một quốc đảo nhỏ ở nam Thái Bình Dương, đã thu hút dư luận thế giới hướng sự chú ý tới một ngành công nghiệp mới: Khai thác khoáng sản ở biển sâu trong vùng biển quốc tế. Nauru đã đề xuất với Cơ quan Quản lý đáy biển quốc tế (ISA) hoàn thiện một bộ luật khai thác, các quy tắc quy định địa điểm và cách thức các quốc gia và công ty có thể khai thác vùng biển sâu và công bố các văn kiện trong thời gian hai năm. Thời hạn hai năm đó đã kết thúc vào ngày 9/7 vừa qua. Tuy ISA vẫn chưa hoàn thành yêu cầu này, nhưng vẫn sẽ tiếp nhận và xem xét đơn đăng ký của các công ty muốn khai thác đáy đại dương. Quyết định này được đưa ra trong bối cảnh yêu cầu kiểm soát và quản lý việc khai thác khoáng sản và tài nguyên từ đáy đại dương ngày càng được quan tâm.
Theo The Guardian, một số nước như Mỹ, Nga, Anh, Pháp, Nhật, Đức… từ lâu đã thực hiện các nghiên cứu thử nghiệm về triển vọng của các “kết hạch đa kim” - những đám trầm tích nhỏ chứa coban, mangan, niken, đồng… ở đáy biển và tập trung thăm dò, khảo sát tiềm năng DSM. Một số nghiên cứu đã phát hiện vỉa quặng kim loại hỗn hợp lớn tại đáy Đại Tây Dương hay vỉa quặng coban ở Thái Bình Dương… Chương trình khai thác đại dương hợp nhất (IODP) bao gồm 17 nước châu Âu, Nhật Bản, Mỹ và Ấn Độ đã thăm dò khu vực 150.000 km2 ở Ấn Độ Dương. Chính phủ Hàn Quốc đang soạn thảo chiến lược cho chương trình DSM. Nhiều nước cũng hợp tác với nhau để điều tra, thăm dò khoáng sản kết hạch đa kim…
Về phần doanh nghiệp, The Metals có trụ sở tại Vancouver (Canada), là một trong nhiều công ty khai khoáng đang nỗ lực vận động để “đào vàng” từ đáy biển. Công ty này đang tiến hành các hoạt động thăm dò vùng đáy biển có độ sâu từ 3.500 đến 5.000 m để đánh giá trữ lượng kim loại. Có khoảng vài chục đơn xin phép như vậy được ISA cấp phép, bất chấp khả năng có thể gây ra thảm họa sinh học. Mặt khác, Mỹ không phải là thành viên của ISA, lại cho phép Cơ quan Quản trị khí quyển và đại dương quốc gia Mỹ (NOAA) cấp giấy phép thăm dò cho các hoạt động DSM quốc tế.
Và vì vậy, một cuộc đua xin cấp phép DSM cũng đang hình thành, mà quốc gia hay tập đoàn nào có được giấy phép sẽ có lợi thế hơn trong việc thăm dò các vùng biển quốc tế. Lý do là vì giá kim loại liên tục lập đỉnh cao mới đã thúc đẩy các công ty khai khoáng triển khai các dự án thăm dò đáy biển để đáp ứng nhu cầu lớn của các nền công nghiệp đang phát triển nóng.
![]() |
| Nhà khoa học lấy mẫu kết hạch đa kim dưới đáy biển. Ảnh: MIT |
Tiềm ẩn nhiều rủi ro môi trường
Mặc dù DSM có tiềm năng tiếp cận các nguồn tài nguyên quý như kim loại hay cả đất hiếm, nhưng cũng đi kèm nhiều rủi ro về môi trường. Những người ủng hộ DSM lập luận rằng nó có thể giúp tiếp cận nguồn tài nguyên dồi dào và giảm áp lực đối với các hoạt động khai thác trên đất liền, góp phần vào tăng trưởng và phát triển kinh tế. Khai thác dưới biển sâu được coi là một giải pháp tiềm năng để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng đối với các khoáng sản, đặc biệt là khi các nguồn trên đất liền trở nên cạn kiệt. Một số ý kiến còn coi đây là huyết mạch kinh tế cho các quốc đảo nhỏ đang phải hứng chịu những tác động mạnh nhất của biến đổi khí hậu.
Tuy nhiên, các nhà khoa học nêu lên mối lo ngại về tác động môi trường tiềm ẩn của việc khai thác dưới biển sâu, cho rằng quá trình khai thác có thể phá hủy hệ sinh thái và môi trường sống, dẫn đến mất đi các loài sinh vật biển. Cũng có những lo ngại về việc giải phóng các hóa chất độc hại khi khai khoáng dưới lòng biển. Đây là một trong những mối quan tâm hàng đầu vì khi khai thác các kết hạch đa kim có thể giải phóng chất phóng xạ và gây rủi ro đáng kể cho sức khỏe con người. Nếu thừa nhận các hoạt động DSM diện rộng sẽ vướng phải rào cản đạo đức cũng như các nguy cơ môi trường khác, chẳng hạn như ô nhiễm tiếng ồn, có thể ảnh hưởng đến cách các loài động vật bao gồm cá heo và cá voi giao tiếp và định hướng ở vùng nước sâu hơn.
Chuyên gia về chính sách đại dương Jessica Battle tại Quỹ Động vật hoang dã thế giới (WWF) cho biết, việc khai thác có thể gây hại cho các hệ sinh thái mà các nhà khoa học chưa nghiên cứu hết được. Bà Battle đã kêu gọi một số doanh nghiệp cam kết không tài trợ cho hoạt động DSM, hoặc sử dụng nguồn vật liệu dưới đáy biển trong chuỗi cung ứng của họ. Hơn 30 công ty, bao gồm BMW, Google, Samsung, Volvo và Volkswagen đã ký vào cam kết, hay các ngân hàng nổi tiếng ở Anh như Lloyds và Standard Chartered, đang từ chối kinh doanh với các đối tác có DSM.
Theo dự đoán của Cơ quan Năng lượng quốc tế (IEA), xe điện dự kiến sẽ chiếm khoảng 35% số xe bán ra trên toàn cầu vào năm 2030, tăng từ 14% vào năm 2022. Sự tăng trưởng đó sẽ làm tăng nhu cầu đối với các kim loại như coban, đồng và niken được sử dụng trong pin. Nhưng nhiều ý kiến chỉ trích DSM không mang lại lợi nhuận lớn vì chi phí hậu cần và vận chuyển kim loại trở lại đất liền rất cao. Chuyên gia Jessica Battle cho rằng các giải pháp khác như vật liệu thay thế, tái sử dụng và tái chế pin có thể đáp ứng đầy đủ nhu cầu về các kim loại quan trọng. “Ngành công nghiệp DSM có thể bắt đầu mà không cần thiết”, bà nhận định.
Thiếu hành lang pháp lý, quy định và hướng dẫn
ISA là tổ chức liên chính phủ do Công ước LHQ về Luật Biển (UNCLOS) thành lập. Đặt trụ sở tại quốc đảo Jamaica, ISA chịu trách nhiệm quản lý khai khoáng ở các vùng lãnh hải phía ngoài những vùng đặc quyền kinh tế của mỗi quốc gia. Cơ quan này đặt mục tiêu đạt được sự cân bằng giữa khai thác tài nguyên và bảo vệ hệ sinh thái biển, nhưng chưa đề ra một khung pháp lý toàn diện để bảo đảm các hoạt động khai thác dưới biển sâu được thực hiện một cách có trách nhiệm và bền vững.
UNCLOS quy định các quốc gia quản lý hoạt động khai thác khoáng sản ở vùng dưới đáy biển trong phạm vi quyền tài phán quốc gia của họ. Thế nhưng, khoảng 60% đáy đại dương nằm ngoài thẩm quyền của các quốc gia. Do đó, các hoạt động thăm dò hoặc khai thác cần được một cơ quan quốc tế công nhận. Vấn đề ở chỗ, ISA vẫn chưa hoàn thiện các bộ quy tắc, mới chỉ có các quy định thăm dò và luật khai thác vẫn đang được xem xét. Các nhà khoa học đã chỉ ra nhiều lỗ hổng trong hệ thống quản lý của ISA, cho rằng cơ quan này thiếu chức năng bảo vệ môi trường.
ISA đã không hoàn thành các quy định về khai thác, từ việc khai thác có thể ảnh hưởng đến hệ sinh thái biển như thế nào, đến các tranh cãi về lợi nhuận của quá trình DSM sẽ được phân phối ra sao để mang lại lợi ích cho toàn nhân loại. Nhà sinh vật học Jesse van der Grient tại Viện Nghiên cứu môi trường nam Đại Tây Dương cho biết: “Điều quan trọng là khi khai khoáng dưới đáy biển có thể gây hại nghiêm trọng cho môi trường”. Trước những chiến dịch vận động hành lang ngày càng mạnh của các tập đoàn khai khoáng toàn cầu và khoảng trống khoa học, các quốc gia thành viên của ISA cũng gặp khó khăn trong việc xác định các giới hạn “có thể chấp nhận” được về tác hại đối với môi trường của DSM.
Hiện, một nhóm bốn quốc gia do Chile dẫn đầu đã đưa ra đề xuất ISA tiếp tục từ chối tất cả các đơn khai thác cho đến khi hoàn thiện bộ quy tắc. Tổng cộng 15 quốc gia, trong đó có Canada, Pháp, Fiji, Micronesia… và gần đây nhất là Thụy Sĩ cũng đưa ra tuyên bố phản đối hoạt động khai thác dưới biển sâu ở vùng biển quốc tế. Nhiều nước đang yêu cầu thận trọng khi xem xét và cấp phép các hoạt động DSM trong vùng biển quốc tế.
