Nhiều bãi rác ở Việt Nam đã đóng cửa, được phủ đất và cây xanh. Song nước rỉ rác vẫn thấm xuống lòng đất, mùi hôi âm ỉ kéo dài, người dân chung quanh phải sống chung với hệ lụy môi trường suốt nhiều năm.
Hít thở bình thường trong nhà máy xử lý rác!
Ít ai nghĩ rằng, trong khuôn viên một nhà máy xử lý rác thải, người ta có thể đứng lại, trò chuyện và hít thở một cách bình thường. Không mùi, không khói - những điều vốn “xa xỉ” ở các nhà máy xử lý rác. Đó là thành quả hơn 10 năm của nhóm kỹ sư Công ty Cổ phần Môi trường Năng lượng Xanh ASIAN Bắc Giang. Hệ thống có khả năng xử lý rác không cần phân loại tại nguồn, thu hồi năng lượng mà không phát sinh khói, nước rỉ rác hay tro xỉ.
Theo kỹ sư Phạm Quốc Hùng, đó là một hành trình “rất tâm đức”, đòi hỏi nhiều hy sinh, từ tài chính đến đời sống cá nhân. Có những giai đoạn, cả nhóm gần như tách mình khỏi nhịp sống thường nhật, dành toàn bộ thời gian cho phòng thí nghiệm, xưởng chế tạo và những thử nghiệm kéo dài không biết bao nhiêu lần.
Khó khăn lớn nhất không chỉ nằm ở tiền bạc, mà ở độ phức tạp của bài toán khoa học. Trong quá trình nghiên cứu, nhóm từng lựa chọn dây chuyền công nghệ từ nước ngoài. Tuy nhiên, thực tế vận hành nhanh chóng cho thấy sự không phù hợp. Công nghệ chỉ xử lý hiệu quả một phần rác “thuần”, trong khi rác sinh hoạt tại Việt Nam là hỗn hợp phức tạp, khó kiểm soát.
Khi rác thành tài nguyên
Sáng chế được xây dựng từ thực tiễn rác thải sinh hoạt trong nước. Thay vì áp dụng mô hình ngoại nhập chỉ phù hợp với rác đã phân loại, nhóm phát triển công nghệ nhiệt phân áp suất tùy biến (VPD), cho phép xử lý trực tiếp rác hỗn hợp mà không yêu cầu thay đổi thói quen sinh hoạt của người dân.
Hệ thống vận hành trong môi trường kín, ở dải nhiệt độ thấp, kết hợp xúc tác độc quyền, giúp rác được chuyển hóa thành khí đốt, dầu sinh học và than sinh học. Toàn bộ quá trình xử lý được thực hiện theo quy trình khép kín, không phát sinh khói, nước rỉ rác hay chất thải thứ cấp ra môi trường.
Khác với các lò đốt rác truyền thống hay nhà máy điện rác, công nghệ này không đốt hở, không tạo ống khói, không phát sinh tro bay hay xỉ thải phải chôn lấp lâu dài. Rác không bị “tiêu hủy” đơn thuần mà được chuyển hóa thành các sản phẩm có thể tái sử dụng, phù hợp với nguyên lý kinh tế tuần hoàn.
Ngay từ khâu tiếp nhận, rác được xử lý mùi bằng vi sinh bền vững, giúp khu vực tập kết không mùi, không ruồi nhặng. Nhờ đó, nhà máy có thể đặt gần khu dân cư hoặc ngay tại các bãi rác cũ cần hoàn nguyên.
Quan trọng hơn, sáng chế này giải quyết đồng thời hai bài toán: Xử lý rác thải sinh hoạt hỗn hợp một cách triệt để và tạo ra nguồn nguyên liệu, năng lượng có thể tiếp tục khai thác - thay vì để rác trở thành gánh nặng kéo dài cho môi trường và quỹ đất đô thị.
“Rất mong các cơ quan của Chính phủ, Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội có thể về thẩm tra, kiểm nghiệm, đánh giá. Nếu công nghệ này được nhân rộng, thì nhiệm vụ xử lý rác thải, nước thải sinh hoạt trên cả nước có thể tập trung vào giải quyết trong vòng 1-2 năm”, đại biểu Thịnh khẳng định.
Trăn trở bài toán cơ chế
Theo kỹ sư Bùi Quốc Dung, dù Nhà nước đã có nhiều văn bản thúc đẩy đổi mới sáng tạo, công nghệ xanh và kinh tế tuần hoàn, song đến nay vẫn thiếu bộ tiêu chí thống nhất để xác định, thẩm định và công nhận thế nào là “công nghệ xanh” đúng nghĩa.
Nhóm kỹ sư mong thời gian tới, các cơ quan quản lý sớm hoàn thiện khung pháp lý và tiêu chí đánh giá đối với công nghệ môi trường tiên tiến, đặc biệt là các công nghệ xử lý rác thải không phát thải. Khi đó, những sáng chế “made in Vietnam” không chỉ có cơ hội được ứng dụng rộng rãi trong nước, mà còn trở thành một phần thực chất trong lộ trình chuyển đổi xanh và phát triển bền vững, giúp đất nước vươn mình trong thời đại mới.
Liên quan đến sáng chế trên, tại kỳ họp thứ 10 của Quốc hội gần đây, đại biểu Phạm Văn Thịnh (tỉnh Bắc Ninh) nêu ý kiến: Đối với việc xử lý rác thải sinh hoạt, ngoài công nghệ đốt rác phát điện, công nghệ sinh học và việc phân loại rác, thì ở Bắc Ninh đã triển khai được hơn một năm, đã được các cơ quan khoa học khẳng định hiệu quả, địa phương đã đưa vào sử dụng công nghệ phân hủy nhiệt, hoàn toàn không có tro bay, không có khí thải, mức tác động môi trường thấp hơn rất nhiều lần so với công nghệ cũ. Sản phẩm thu hồi sau khi xử lý rác gồm có dầu sinh học, than sinh học và khí singas.