1. Ở phương Tây, ngay từ thời cổ đại đã có tác phẩm đồ sộ viết về chiến tranh. Trường ca home là một thí dụ. Sau này, nhiều tác phẩm kinh điển viết về chiến tranh tiếp tục ra đời, Chiến tranh và hòa bình là một tác phẩm nổi bật. Ở Việt Nam, tác phẩm văn học viết đầu tiên về chiến tranh có lẽ là bài thơ Thần của Lý Thường Kiệt. Các nhà thơ lớn đời Trần không ít tác giả có thơ viết về chiến tranh hoặc đề cập tới những vấn đề sau chiến tranh. Có thể nói, Hịch tướng sĩ và Bình Ngô đại cáo là hai kiệt tác văn chương viết trực tiếp về chiến tranh còn mãi lưu danh hậu thế.
Những tác phẩm trên sống được cùng thời gian, chinh phục bạn đọc nhiều thế kỷ có thể rất nhiều lý do. Nhưng lý do căn cốt là nó khơi dậy một cách sâu sắc và chính xác cõi thẳm sâu tâm thức của con người và thời đại. Những tác giả viết lên những kiệt tác này là những người có thiên tính lớn. Họ là những nhà tiên tri vĩ đại...
2. Về dòng văn học cách mạng 1945-1975, tôi đã được nghe nhiều nhận xét rất khác nhau. Có một thời không ít người khẳng định rằng: Chúng ta đã có một dòng văn học viết về chiến tranh và người lính đồ sộ; rằng, dòng văn học cách mạng đã đạt được những thành tựu vĩ đại... Vào thời kỳ đổi mới người ta quay lại với không ít ý kiến mạnh mẽ vang lên phủ nhận văn học kháng chiến. Có người không úp mở: Văn học chiến tranh là thứ văn học cổ động, là dàn đồng ca, không giá trị gì về nghệ thuật... Tôi không thích khi đánh giá nhận xét về một thời kỳ văn học mà đẩy đến tận cùng cả hai thái cực cảm tính cực đoan.
Cách đây hơn mười năm, khi nói về thơ Phạm Tiến Duật, tôi có nói một ý, đại loại: Người ta dù chủ quan hay cố tình đến đâu cũng không thể phủ định sự thật hiển nhiên, có một thời kỳ văn học đã làm tròn sứ mệnh phục vụ cho cuộc kháng chiến vĩ đại. Trong dòng chảy lịch sử dân tộc có hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ, thì đương nhiên văn học thời kỳ này là một bộ phận, không thể mất đi hay lu mờ.
Nhắc lại vấn đề này, tôi nghĩ, khi đánh giá văn học 1945-1975 phải căn cứ vào thành tựu mà nó đạt được với tinh thần và nhiệm vụ đặt ra, là nó phục vụ như thế nào, hiệu quả đến đâu trong hai cuộc kháng chiến của dân tộc. Gía trị của nó nằm ở chỗ phục vụ tầng lớp lao động bình dân, kêu gọi lôi kéo quần chúng nhân dân hướng vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, phục vụ đắc lực cho cuộc kháng chiến của nhân dân đi đến toàn thắng... Với cách nhìn như trên, chúng ta không nhất nhất lấy tiêu chí tìm tòi các hình thức cách tân nghệ thuật để soi xét văn học thời kỳ này: Rằng có hay không tác phẩm lớn.
3. Cách đây gần mười năm, tôi có về thăm nhà thơ thôn quê Ðoàn Văn Cừ. Ông kể, khoảng những năm 1960, ông gặp nhà thơ Huy Cận. Huy Cận gợi ý ông nên xin về một cơ quan văn nghệ Trung ương như báo Văn Nghệ, Nhà xuất bản hay về hẳn cơ quan Hội để chuyên tâm sáng tác văn học, đừng làm ông giáo làng nữa. Nhưng thời kỳ đó, Ty Văn hóa thông tin Nam Ðịnh đã điều ông lên công tác. Nhiệm vụ của ông hồi ấy là chuyên tâm viết thơ ca ngợi phong trào hợp tác xã, thả bèo hoa dâu, trồng cây điền thanh. Ðại loại là cổ động phong trào nông nghiệp, nông thôn, nông dân của tỉnh. Ðồng thời kêu gọi thanh niên ra mặt trận, giải phóng đất nước. Nhiều nhà thơ, nhà văn ở Trung ương khi ấy cũng được cử về địa phương để viết về phong trào hợp tác hóa. Viết như thế nào thì tùy nhưng phải để cho nhân dân dễ đọc, dễ hiểu và khuyến khích được phong trào. Những câu thơ, bài thơ của các nhà thơ lớn như: "Nông trường ta rộng mênh mông/ Trăng lên trăng nặn trăng không ra ngoài" - Tế Hanh; và "Anh cho quả trứng vịt/ Tôi nhận mà run run/ Tình đồng chí ruột thịt/ Những người chung tâm hồn..." - Xuân Diệu, ra đời trong phong trào này.
Nhìn nhận thẳng thắn và không né tránh, thì văn học nói chung, thơ ca nói riêng giai đoạn này thường rơi vào thói quen khi sáng tạo, cấu trúc sơ lược, ngôn ngữ, hình ảnh, ý tưởng cũ. Khả năng khám phá những vẻ đẹp của đời sống và con người ở tầng sâu hạn chế, thiếu trí tưởng tượng. Nội lực văn hóa yếu nên các tác phẩm thường chỉ chạm vào bề mặt của thói quen truyền thống và phía ngoài kinh nghiệm. Tác phẩm vì thế không thể vươn tới cõi thẳm sâu trong thế giới tinh thần mà hầu hết là "tả thực", đôi khi vội vã sống sượng, nên ít có tính tư tưởng, sức sống của tác phẩm như thế cũng èo uột và ngắn ngủi. Những tác phẩm có được chỗ đứng trong lòng bạn đọc đương nhiên phải là những tác phẩm phản ánh đúng bản chất của cõi người ở những tầng sâu kín nhất.
4. Trở lại với vấn đề lớn: "Ðể văn học viết về chiến tranh xứng tầm hiện thực", trước hết tôi nghĩ cần làm rõ khái niệm "hiện thực". Chúng ta đã được nghe rất nhiều ý kiến của không ít nhà văn, và đặc biệt trong các hội nghị tuyên huấn bàn về văn học nghệ thuật người ta thường đưa ra thảo luận. Tôi không có ý kiến gì về quan niệm nêu trên, nhưng trộm nghĩ: Ðây là một quan niệm chưa chuẩn xác. Vì cái mà chúng ta quan niệm về "hiện thực" trong hai cuộc kháng chiến vừa qua chính là "hiện thực" của các sự kiện. Theo đó đòi hỏi nhà văn phải viết đúng như hiện thực xảy ra ở các sự kiện ấy, như thế mới được coi là tác phẩm lớn. Ðây là một sai lầm và phi văn học. Vì nếu cần phải phản ánh sự vĩ đại của các sự kiện trong chiến tranh như thực tế đã xảy ra, thì đó là công việc của các nhà làm phim tài liệu, các nhà sử học, hồi ký của các tướng lĩnh, nguyên soái... Ở đó các thể loại này có khả năng "sao chụp" sự kiện một cách chính xác và chiếm ưu thế tuyệt đối. Có điều nó không bao giờ được coi là tác phẩm văn học theo đúng nghĩa.
Trái lại, văn học không thể và không bao giờ bê nguyên si hiện thực các sự kiện vào trong tác phẩm, dù các sự kiện đó vĩ đại đến đâu. Vì rằng, "hiện thực" văn học, nếu có, là "hiện thực" thuộc về bản chất phổ quát của con người, của cõi thẳm sâu nhân tính cõi người; là thứ "hiện thực", được cá thể hóa triệt để trên một tinh thần tự phê phán và phản biện rất cao. Theo đó, các nhà văn khi viết về chiến tranh họ chỉ dựa trên nền tảng của các sự kiện để khai thác triệt để mọi góc cạnh trong những tầng sâu nhân tính con người. Tác phẩm do đó có được giá trị to lớn.
Những tác phẩm lớn của Việt Nam và thế giới là những tác phẩm như thế: Tội ác và trừng phạt chỉ xoay quanh một nhân vật- kẻ giết người Raskolnikov; Trăm năm cô đơn viết về dòng họ Buênđya tồn tại trong một ngôi làng; AQ chính truyện chỉ với một nhân vật; Chí phèo chỉ ở làng Vũ Ðại, Số đỏ với Xuân tóc đỏ, hình ảnh Kiên trong Nỗi buồn chiến tranh... Ðó là những tác phẩm hư cấu. Nhưng ai dám bảo rằng nó không phải là những kiệt tác văn chương, vượt qua thời gian và mọi biên giới, lãnh địa các quốc gia. Tất cả những tác phẩm vĩ đại trên đều là những tác phẩm khám phá triệt để bản chất phổ biến ở tầng sâu nhân tính con người. Những tác phẩm tự nhận thức và phản tỉnh rất cao.
Từ quan niệm này, để có được những tác phẩm có giá trị lớn viết về chiến tranh và người lính, các nhà văn không có cách nào khác phải sáng tạo ra những giọng điệu riêng biệt trong cả ngôn ngữ, hình ảnh và cấu trúc. Dũng cảm xem xét và nhận thức lại một cách tự giác bản chất tự thân; khám phá vẻ đẹp mọi khía cạnh ở tầng sâu nhân tính. Ðủ dũng cảm để chối từ những hình thức cũ kỹ, những kinh nghiệm đơn thuần, những tiểu xảo khéo léo, kỳ dị, những dụ dỗ quyền lực, vật chất mê hoặc... Các rào cản trên sinh ra từ sự kiêu ngạo chủ quan. Nó che khuất mọi tầm nhìn, hủy diệt mọi khả năng linh giác, để lại sự lười biếng, sơ sài và viết ra những tác phẩm qua quýt, nông cạn lừa dối bạn đọc...