1. Bảo tàng Lịch sử quốc gia vừa phối hợp Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước, Trung tâm Bảo tồn di sản Thăng Long - Hà Nội, Bảo tàng Hà Nội, Bảo tàng tỉnh Ninh Bình và Trung tâm Bảo tồn di sản thành nhà Hồ (Thanh Hóa) khai mạc trưng bày chuyên đề “Quốc hiệu và Kinh đô Đại Việt qua các thời kỳ lịch sử” tại số 1 Tràng Tiền (Hoàn Kiếm, Hà Nội).
Chỉ qua những hiện vật, tư liệu đặc sắc, đa dạng, được Bảo tàng Lịch sử quốc gia chọn giới thiệu trong trưng bày chuyên đề “Quốc hiệu và Kinh đô Đại Việt qua các thời kỳ lịch sử” chúng ta có thể hình dung và tự hào về chiều dài lịch sử hơn 2.500 năm của dân tộc - từ thời văn hóa Đông Sơn đến thời hiện đại. Các dấu tích kiến trúc, vật liệu xây dựng và trang trí… là kết quả nghiên cứu khai quật khảo cổ học về các kinh đô cổ của Việt Nam. Mỗi hiện vật đều chứa đựng những giá trị thẩm mỹ, nghệ thuật, mang tải cả thế giới quan và nhân sinh quan của người đương thời. Những sản phẩm chế tác càng về sau càng thể hiện kỹ thuật tinh xảo - như trống đồng Cảnh Thịnh (thời Tây Sơn, năm 1800), ấn “Đại Nam thụ thiên vĩnh mệnh truyền quốc tỷ” (thời Nguyễn, năm 1847) - là hai trong số những bảo vật quốc gia… Đây là những tư liệu lịch sử, bằng chứng vật chất thể hiện khát vọng và ý chí độc lập, tinh thần tự tôn, tự hào dân tộc của các bậc tiền nhân nước Việt.
Bảo vật quốc gia Trống đồng Cảnh Thịnh.
2. Quốc hiệu là tên chính thức của một quốc gia được dùng trong quan hệ ngoại giao, pháp lý, thương mại… biểu thị tính chính thống của một vương triều hay chính phủ của mỗi quốc gia. Bằng việc tự gọi tên, một dân tộc khẳng định mình trong các mối quan hệ nội trị và bang giao. Thời hiện đại, quốc hiệu còn thể hiện chủ quyền lãnh thổ, thể chế chính trị của một dân tộc trên trường quốc tế.
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương”
(Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi, Ngô Tất Tố dịch)
Những lời văn hào hùng đó cách đây gần 600 năm nêu cao niềm tự hào, khẳng định nền độc lập dân tộc và cũng nói lên danh xưng, chủ quyền quốc gia và sự tiếp nối liền mạch của nền văn hiến. Từ rất sớm, trên mảnh đất Việt ngày nay, quốc gia đã được đặt tên.
Việc đặt quốc hiệu của các triều đại phong kiến thể hiện lòng tự tôn dân tộc qua các danh xưng mỹ tự như: Vạn Xuân, Đại Cồ Việt, Đại Việt, Đại Ngu (đất nước bình yên), Đại Nam, Việt Nam, đều thể hiện khát vọng tự chủ và hùng cường. Thời hiện đại, sau khi Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, quốc hiệu Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khẳng định giai đoạn mới trong lịch sử dân tộc, Thủ đô được chọn là Hà Nội. Sau hai cuộc kháng chiến chống xâm lược và đấu tranh thống nhất đất nước, Kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa VI, ngày 2-7-1976, đã quyết định đổi tên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và tiếp tục chọn Thủ đô là Hà Nội - vùng đất nghìn năm văn hiến.
Bên cạnh việc khẳng định chủ quyền của một quốc gia tự chủ, việc lựa chọn vùng đất để đặt kinh đô là điều quan trọng. Nhãn quan địa chính trị, địa quân sự (theo cách gọi ngày nay) ở mỗi thời trong từng giai đoạn lịch sử quyết định vùng đất được chọn làm kinh đô với vai trò là trung tâm chính trị, quân sự, kinh tế và văn hóa của đất nước. Việc thiếu tư liệu chưa cho phép chúng ta xác định chính xác những trung tâm, thủ phủ của người thời tiền sơ sử. Cho đến nay chúng ta còn biết được những nơi đã được chọn làm kinh đô của nước Việt xưa: Cổ Loa (Hà Nội) thời An Dương Vương, Hoa Lư (Ninh Bình) - thời Đinh, Tiền Lê, Thăng Long - trong hơn 700 năm, qua các thời Lý, Trần, Lê, Mạc và tiếp nối là Hà Nội trong thời hiện đại, Tây Đô (Thanh Hóa) - thời Hồ và Huế - thời Nguyễn.
Trưng bày sẽ kéo dài đến cuối tháng 10 nhằm tạo điều kiện cho đông đảo công chúng thưởng lãm, tìm hiểu, thêm tự hào về truyền thống và tinh thần dân tộc.