“Xây” được thị trường
Nằm trên địa bàn thị xã Mỹ Hào (Hưng Yên) với diện tích 11.500m2, nhà máy sản xuất, chế tạo dụng cụ cơ khí, với những sản phẩm trọng tâm bao gồm bốn lĩnh vực riêng biệt: Chế tạo dụng cụ cắt; chế tạo chi tiết cơ khí chính xác; dịch vụ phủ PVD; tự động hóa và chế tạo máy… là “cứ địa” thổi lửa ước mơ “Made in Vietnam” của ông chủ Nguyễn Hồng Phong, Chủ tịch HĐQT Công ty TNHH Dụng cụ An Mi (An Mi Tools).
Kể với chúng tôi, ông Nguyễn Hồng Phong khoe: Khách hàng của công ty là các tập đoàn đa quốc gia, các doanh nghiệp FDI như Samsung, Toyota, Honda… và doanh nghiệp lớn trong nước.
15 năm phát triển, Chủ tịch An Mi Tools tự hào đã có chỗ đứng trên thị trường. Bí quyết giúp An Mi Tools được các đối tác lớn lựa chọn là nhờ hệ thống máy móc chuyên nghiệp, hiện đại… đáp ứng được các tiêu chuẩn khắt khe. Hiện nay, doanh thu của công ty khoảng vài trăm tỷ đồng mỗi năm. Mục tiêu doanh thu của An Mi Tools đặt khoảng 800 triệu đến 1.000 tỷ đồng vào năm 2025 và 2.000 tỷ đồng năm 2030.
Ông Phong trải lòng, lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ, cơ khí chế tạo được coi là xương sống của nền kinh tế. An Mi Tools đang nỗ lực hết mình để ngày một nâng cao vị thế của doanh nghiệp Việt.
Cùng khao khát đó, Công ty CP Truyền thông và máy tính Thánh Gióng (thành lập năm 2005) cũng mong muốn tạo ra một sản phẩm cho người Việt trong vô vàn thương hiệu lớn trên thị trường công nghệ.
Ông Lại Hoàng Dương, Giám đốc công ty cho biết, tiền thân là nhà phân phối máy tính của các hãng trên thế giới, sau 5 năm ông đã quyết định chuyển sang sản xuất, lắp ráp máy tính nguyên bộ với 55% linh kiện sản xuất trong nước.
Ông Dương kể, thời điểm đó, do học điện tử viễn thông nên ông am hiểu về máy tính. Lúc bấy giờ, có nhiều hãng máy tính của nước ngoài “ăn nên làm ra” tại Việt Nam. Cũng vô tình ông biết đến hãng máy tính Trường Thành của Trung Quốc, cũng rất nổi tiếng.
Ông thiết nghĩ, văn hóa Trung Quốc giống người Việt, hàng hóa và thiết bị Việt Nam gần như nhập từ Trung Quốc, vì sao chúng ta lại không có một hãng máy tính cho riêng mình. Nói là làm, ông đã cùng cộng sự bắt tay vào nghiên cứu, tìm cách sản xuất ra một dòng máy tính để bàn mang thương hiệu Thánh Gióng, với tiêu chuẩn bền, rẻ.
Quan điểm của doanh nghiệp không đi theo con đường thương mại mà chỉ tập trung vào sản xuất. Thời điểm đó, tệp khách hàng của Thánh Gióng phần lớn là các cơ quan quân đội, những sản phẩm liên quan đến bảo mật. Đến năm 2012-2015 Thánh Gióng mở rộng đại lý là các công ty làm thầu các thiết bị về công nghệ thông tin dùng ngân sách nhà nước. Thường đại lý đặt hàng theo yêu cầu gói thầu, công ty mới bắt tay vào sản xuất.
Đến nay, mỗi năm bán được khoảng 2.000 máy. Doanh thu bao gồm các dịch vụ khác khoảng 60-100 tỷ đồng/năm. Ông Dương cho biết, doanh thu mỗi năm đều tăng trưởng hơn 50%, nhưng do dung lượng thị trường nhỏ nên mức doanh thu cũng còn nhỏ.
Đại diện Hiệp hội Máy văn phòng Việt Nam đánh giá, hiện nay máy tính của Thánh Gióng thuộc tốp 5 thị trường máy tính Made in Vietnam, cùng với các thương hiệu như CMS của CMC, SingBC của silicon, FPT…
![]() |
Công nhân vận hành dây chuyền trong nhà máy của An Mi Tools tại Hưng Yên. Ảnh: THANH HẢI |
Nhưng… khó phát triển bền vững
Dù vậy, Hiệp hội Máy văn phòng Việt Nam cho rằng, các thương hiệu máy móc của Việt Nam rất khó phát triển bền vững. Theo đơn vị này, còn quá nhiều điểm yếu và thiếu để thương hiệu Việt sánh vai cùng các “ông lớn” trên thị trường.
Thực tế, ông Dương cho biết, dù giá máy tính Thánh Gióng rẻ hơn các dòng máy cùng phân khúc trên thị trường từ 5-10%, nhưng thương hiệu này tuyệt nhiên không xuất hiện trên các sạp hàng, siêu thị điện máy.
“Một phần vì chiến lược công ty, phần khác vì dung lượng thị trường thấp khi người tiêu dùng vẫn có tâm lý sính ngoại, chưa có niềm tin vào hàng nội”, ông Dương giải thích.
An Mi Tools cũng thẳng thắn, trong quá trình phát triển họ gặp rất nhiều khó khăn. Khó khăn lớn nhất là đào tạo nhân sự. Ông Phong cho biết, An Mi Tools tập trung nhóm khách hàng cao cấp nên yêu cầu của khách cũng cao hơn. Yêu cầu trình độ và sự đồng bộ của nhân sự phải cao. Song, rất khó để tìm kiếm một nơi có thể kết nối được các yêu cầu đào tạo của An Mi Tools.
“Để phát triển, mục tiêu của chúng tôi là tái cơ cấu hệ thống đánh giá nhân sự - lương thưởng. Tuy nhiên, việc này là một phạm vi rộng, không dễ”, ông Phong than thở và kiến nghị có sự kết nối hơn nữa các trung tâm đào tạo nhân lực cho doanh nghiệp…
Tiếp đến là việc xây dựng thương hiệu và giữ chân đối tác. Theo ông, công ty đã mất rất nhiều thời gian, công sức thuyết phục khách hàng. Thay vì làm một vài mẫu thử, công ty phải trình hàng chục mẫu. Dù bảo đảm được chất lượng thì công ty cũng phải chào hàng giá hấp dẫn mới thắng được các tập đoàn lớn của nước ngoài.
Vấn đề nằm ở niềm tin người tiêu dùng
Khó khăn của hai doanh nghiệp nêu trên chỉ là phần nhỏ trong số những hạn chế mà Bộ Công thương thống kê, ảnh hưởng đến việc phát triển của những thương hiệu “Made in Vietnam”.
Ông Vũ Bá Phú, Cục trưởng Xúc tiến thương mại (Bộ Công thương) cho biết, với gần 500 doanh nghiệp được hỏi chỉ có 16% số doanh nghiệp có bộ phận chuyên trách về marketing, 80% số doanh nghiệp không có chức danh quản lý nhãn hiệu, phần lớn doanh nghiệp chưa có thói quen sử dụng dịch vụ tư vấn kinh doanh - kể cả tư vấn về thương hiệu.
“Theo các doanh nghiệp, nguyên nhân của thực trạng trên là do hàng Việt Nam rất dễ làm nhái, làm giả, tạo cảm giác không an toàn cho người tiêu dùng. Vì vậy, cho dù sản xuất ra các loại sản phẩm tốt, giá hợp lý thì vẫn chưa được người tiêu dùng lựa chọn. Mặt khác, nếu xây dựng được thương hiệu mạnh, có uy tín thì việc chống hàng giả cũng đang trở thành áp lực rất lớn đối với việc phát triển và bảo vệ thương hiệu của doanh nghiệp”, ông Phú nói.
Các chuyên gia nhận định, “Made in Vietnam” vẫn còn mập mờ và gây tranh cãi làm mất uy tín của thương hiệu Việt. Bài học nhãn tiền Asanzo vẫn còn đó. Thương hiệu này được công nhận “Hàng Việt Nam chất lượng cao”, nhiều năm sau khi báo chí nêu lên vấn đề nhập nhèm xuất xứ Asanzo thì chương trình Hàng Việt Nam chất lượng cao nhanh chóng rút giải thưởng.
Để sản phẩm “Made in Vietnam” phát triển, nguyên Phó Viện trưởng Nghiên cứu quản lý kinh tế T.Ư Võ Trí Thành nhìn nhận, trước tiên phải đánh giá ở việc chậm trễ trong vấn đề xây dựng thương hiệu quốc gia. Việc này làm cho niềm tin của người tiêu dùng với hàng Việt bị giảm sút. Họ không tin vào hàng Việt với các tiêu chuẩn theo cơ chế xin - cho.
Làm nghiêm việc nâng thương hiệu Việt, để lấy niềm tin người tiêu dùng mới có thể giúp hàng Việt có chỗ đứng. Nhìn rộng ra, vị chuyên gia này cho rằng có ba vấn đề còn nhiều trăn trở hiện nay. Đó là, tốc độ xuất khẩu đang ở ngưỡng cao nhất thế giới trong 25 năm qua nhưng tốc độ nhìn nhận thương hiệu trong xuất khẩu còn hạn chế.
Bên cạnh đó, hình ảnh về sản phẩm Việt Nam còn khá mờ nhạt. Một điểm khác nữa là trong khi phát triển thương hiệu, xây dựng thương hiệu khó khăn như vậy thì hiện nay có nhiều doanh nghiệp lại phá hủy hình ảnh thương hiệu đã gây dựng suốt bao năm và làm mất niềm tin của công chúng. Do vậy, đã đến lúc cần nhìn thẳng vào gốc rễ của câu chuyện thương hiệu và phải có hành động kịp thời.
Trước tình hình này, đại diện Vụ Chính sách thương mại đa biên (Bộ Công thương) nhấn mạnh, khách hàng sẽ là người quyết định sự thành công hay thất bại của một thương hiệu. Do đó, doanh nghiệp muốn chiếm được niềm tin khách hàng cần phải có chữ tín, bởi thương hiệu mạnh nhờ chữ tín và cũng chính chữ tín làm nên giá trị thương hiệu. Doanh nghiệp cần chủ động thay đổi tư duy kinh doanh, tăng cường liên kết hợp tác và nâng cao sức cạnh tranh, tránh phụ thuộc và trông chờ quá nhiều vào sự hỗ trợ của Nhà nước. Doanh nghiệp phải chuẩn bị, sắp xếp các hoạt động hậu cần trong chuỗi cung ứng để đưa sản phẩm từ Việt Nam đến tận tay người tiêu dùng trong thời gian nhanh nhất với chi phí hợp lý nhất. Muốn đi đến đích, doanh nghiệp phải lên kế hoạch và chuẩn bị mọi thứ thật kỹ càng, bài bản. Từ đó, chủ động kết nối với các đơn vị liên quan để được hỗ trợ.