Ba tập thơ cuối cùng của ông vừa in xong cách đây chưa lâu, vẫn còn thơm mùi giấy mới. Đó là Miền tỏa bóng, Những nẻo người và Những sắc màu đa thức (đều do NXB Hội Nhà văn ấn hành). Tất cả thân hữu, bạn bè văn nghệ đều thương tiếc xót xa cho một cây bút đang ở vào độ sung sức, còn hứa hẹn thêm nhiều tác phẩm, đã sớm vội đi xa. Hơn lúc nào hết, trong tôi, những bài thơ câu thơ của ông lại ùa về.
Gia đình và nguồn cội
Hai tập thơ đầu của ông là Viết tặng em trong ngôi nhà chật (1990) và Mắt thẳm (1993) đã sớm tạo được dấu ấn trong lòng công chúng bởi giọng thơ nồng nàn, chân thành, cảm động. Những bài thơ gây ấn tượng mạnh mẽ của ông trong hai tập này, đều gắn với hai chủ đề gia đình và làng quê. Những câu thơ viết ra trong cái nghèo, gắn với hình ảnh người vợ tào khang, tảo tần, thương yêu và thông cảm cho chồng khiến mỗi chúng ta ai cũng thấy rưng rưng: "Em vất vả gầy hơn đêm ít ngủ/ Lo cho anh chi chút lúc lên đường/ Một viên thuốc đến năm ba lần dặn/ Ốm đau tan từ một lời thương...". Từ căn nhà chật chội ở khu Đê La Thành ấy, chúng ta càng ngày càng thấy rõ một diện mạo thơ, một chân dung thơ Trần Quang Quý dày dặn, rõ nét, được ghi nhận qua hàng loạt giải thưởng văn học, trong đó có ba Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam vào các năm 2004, 2012, 2019 và Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật năm 2016. Trần Quang Quý có thể được coi là người thành công trong thơ và thành đạt cả trong đời với những chức vụ quan trọng, là thủ trưởng của nhưng cơ quan báo chí, văn nghệ. Và một trong những nguồn mạch làm nên năng lượng thơ dồi dào của Trần Quang Quý chính là ngôi làng Hạ Bì của ông, nằm dọc hạ lưu bờ tả sông Đà, đối diện bờ hữu là Tản Viên sơn huyền thoại: "Có những nỗi đời lót trong rơm rạ/ Có một nỗi lòng giắt một nỗi quê/... Làng đã đóng đinh tôi vào cánh cửa" (Cổng làng).
Quyết liệt đổi mới thi ca
Từ sau tập Mắt thẳm, phải đến 10 năm sau Trần Quang Quý mới tái xuất giang hồ với Giấc mơ hình chiếc thớt (2003) và sau đó là Siêu thị mặt (2006). Có thể thấy Trần Quang Quý đã có nhiều thay đổi từ hình thức thơ đến tư duy thơ. Lối viết trong hai tập đầu gần gũi với truyền thống, chú trọng vần điệu với dung lượng dòng thơ vừa phải. Sang đến Giấc mơ hình chiếc thớt, dung lượng dòng thơ được mở rộng hơn, nhà thơ không còn quá nệ vào việc gieo vần để câu thơ được tự do buông thả phóng khoáng theo nhịp điệu của đời sống. Cách tiếp cận hiện thực của Trần Quang Quý dồi dào hơn, và có lẽ vì thế mà ông cũng mang nhiều ưu tư, đau đáu hơn về những giá trị trong cuộc đời: "Trong thế giới của những chiếc thớt bủa vây/ Thương thay những chú cá không rạch qua được số phận/ Ta thấu những bình minh của chuột lặn trong mắt mèo/ Những cây rơm rạn gió sương từ thuở còn bùn đất/ Rực lên hương vị tháng mười/ Những ước vọng không dài hơn một que diêm/ Đành một ngày mục nát dưới kỷ nguyên của nấm" (Giấc mơ hình chiếc thớt). Cho đến Siêu thị mặt thì chất triết luận - thế sự đã tăng lên rất nhiều lần.
Chủ âm của tập thơ này là sự cất lên các diễn ngôn một cách đầy ám ảnh, bóc trần ra những gì thẳm sâu nhất trong hồn vía, tiềm thức của mỗi sự vật hiện tượng. Nhà thơ không chỉ để cho mỗi con người phải lộ diện nhân cách: "Tôi trồi lên hay chìm xuống mặt mình/ Tôi nhân nghĩa hay tôi hiểm ác/ Tôi đo bằng cách ném mặt mình vào siêu thị mặt/ Hy vọng mỗi ngày giá nhân nghĩa nhích lên"; mà còn để cho các sự vật lên tiếng, thế giới của những đồ vật cũng lên tiếng: "Tôi nghe tiếng ngáy cánh đồng gập ghềnh lồng ngực những người đàn ông/ Tiếng hổn hển buổi chiều tuột bờ vai thôn nữ" (Châu thổ).
Sau những va đập khốc liệt của đời sống thành thị, Trần Quang Quý lại trở về làng quê của anh với Màu tự do của đất (2012), Nguồn (2019). Thơ về quê hương của anh bao giờ cũng dung dị mà ấm áp tình người: "Trong trùng điệp bóng quê, trong trùng điệp gót người xa khuất/ Sợi tóc làng rụng xuống ca dao/ Áo rách áo lành bọc được bao nhiêu nhân nghĩa/ Chiếc áo làng tôi, chiếc áo đã vị bùn/ Ai cởi cho ta mùi khói cơm thơm" (Màu tự do của đất).
Khai sinh trường phái Thơ năm câu
Thơ truyền thống của người Việt thường trọng nhịp chẵn và sự đều đặn. Hai thể thơ có số câu thơ cố định thường là bốn câu hoặc tám câu. Việc Trần Quang Quý đề xướng ra thể năm câu là một bước chuyển khác hẳn truyền thống, đi từ chỗ thiên nhịp chẵn sang chỗ thiên nhịp lẻ, tạo nên một cảm giác hoặc dang dở, hoặc tiếc nuối, hoặc nối tiếp với đầy những dư âm. Hai tập Thơ Namkau (2016) và Ướp nhớ (2019) với gần 200 bài thơ đã định hình một phong cách riêng, một hình thức nghệ thuật ổn định và mời gọi không ít các cây bút cùng thử sức.
Trước hết phải khẳng định Trần Quang Quý đã có nhiều bài thơ thành công, đầy sức ám gợi ở hình thức thơ năm câu này: "Mùa thu giặt những đám mây trắng/ Phơi lang thang bầu trời/ Vắt ngang gió một lườn sông chảy/ Trong bình minh chợt nhú/ Ban mai vừa cởi cúc mùa thu" (Cảm thức). Không chỉ sử dụng hình thức tự do trong những bài thơ năm câu, Trần Quang Quý còn dùng cả thể lục bát truyền thống với cách kết lửng ở câu lục, tạo nên một dư ba vang vọng: "Đã từng đi nát con đường/ Gỗ hương long mộng chân giường đứng ngây/ Đã từng hẹn tuột vỏ cây/ Gió ghen vần vũ đám mây tụt quần/ Đã yêu yêu cạn mùa xuân" (Bước yêu).
Trong ba tập thơ cuối cùng, Trần Quang Quý dành tập Miền tỏa bóng cho quê hương và nguồn cội với những bài thơ về cha, về mẹ, về dòng sông Đà chảy bên ngôi làng Hạ Bì thân yêu của ông, dành tập Những nẻo người cho những vùng đất mà ông đã từng đi qua, từ Mã Pí Lèng, Mù Căng Chải, Lai Châu cho đến Tam Đảo, Phú Quốc, Cúc Phương, Chính Mỹ, Đà Lạt, Hải Phòng, Thái Nguyên, Vinh, Gạc Ma; trong đó bài thơ Đi qua mùa hoa mận của ông đã được Giải Nhất về thơ biên phòng, do Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng và Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức năm 2008: "Đường sang bản có mùa hoa mận trắng/ Mắt em lay láy nắng đương chiều/...
Em vượt dốc gùi trên vai trĩu nặng/ Ngực mùa xuân cong ngực con đèo". Và còn tập Những sắc màu đa thức chính là những bài thơ năm câu cuối cùng của ông với không ít những bài thơ, câu thơ đậm chất tài hoa, mang nhiều suy tưởng.
Số phận đã sớm mang ông đi xa nhưng những câu thơ của ông vẫn còn đọng lại mãi nơi đây trong lòng chúng ta.