Thương lắm muối ơi!

Khi gió chướng về cũng là lúc Bạc Liêu vào vụ muối mới. Nhìn mấy diêm dân lực điền hì hục đẩy những chiếc hủ lô to đùng làm nhẵn mặt sân chuẩn bị rước nước vào đồng ai cũng mừng vui khó tả. Nghề muối cực lắm, nhưng đã làm nghề này rồi thì khó mà dứt ra cho được khi tình người, tình muối đã hòa quyện vào nhau.
0:00 / 0:00
0:00
Những bông hoa muối nhen lên niềm hy vọng về một mùa bội thu.
Những bông hoa muối nhen lên niềm hy vọng về một mùa bội thu.

Khi nói đến Bạc Liêu, nhiều người nghĩ ngay đến “vương quốc” của những cánh đồng muối bạt ngàn, ngút mắt. Bởi cái địa danh “muối ba thắt” vốn một thời nổi danh khắp nam kỳ lục tỉnh. Muối Bạc Liêu không chỉ ngon, mà còn trở thành một sản phẩm giàu tính văn hóa, nó giống như cái tình, cái nghĩa của con người Bạc Liêu lúc nào cũng mặn nồng, keo sơn.

Ngon như muối Bạc Liêu

Sản xuất muối là một trong những nghề truyền thống đã có bề dày lịch sử hàng trăm năm ở vùng đất Bạc Liêu. Từ xưa, nghề làm muối ở Bạc Liêu đã giúp cho nhiều đại điền chủ nổi danh giàu “nứt vách” như: ông Hội đồng Trạch, điền chủ Huỳnh Quái… Lưu truyền rằng họ giàu đến nỗi bạc bán muối phải đem ra sân mà phơi.

So với hạt muối được sản xuất ở các tỉnh miền trung, muối Bạc Liêu không sáng trắng bằng, vì nặng tình với biển phù sa. Muối Bạc Liêu có mầu trắng hồng, hạt khô chắc và không tạp mùi. Chính đặc điểm tự nhiên này, đã tạo cho muối Bạc Liêu mang hương vị độc đáo, rất riêng. Nhiều tỉnh, thành phố muốn có món ăn ngon đều phải nhập muối Bạc Liêu về chế biến, vì chỉ có muối Bạc Liêu mới tôn thêm mùi vị, hương sắc khi ướp, khi chế biến những món đặc sản. Đơn cử món ba khía Rạch Gốc ở tỉnh Cà Mau nổi tiếng khắp trong, ngoài nước là một điển hình.

Rồi cũng chính cái riêng này mà từ rất xưa, muối Bạc Liêu được ghe bầu chở xuất bán sang tận Campuchia để muối cá, làm nước mắm, làm khô tạo nên những đặc sản ngon bán đi khắp các nước Đông Nam Á. Và cho đến nay, muối Bạc Liêu cũng là sản phẩm duy nhất ở Việt Nam được đưa vào thị trường Nhật Bản, bởi chất lượng vượt trội so các loại muối khác, đó là mặn mà không chát đắng.

Tương tự, Hàn Quốc cũng chọn hạt muối sản xuất tại quê hương của xứ công tử Bạc Liêu để làm gia vị chế biến cho món kim chi, một trong những món ăn truyền thống nổi tiếng của đất nước này mà không phải thứ gia vị nào cũng có thể chen chân vào được.

Đây là những minh chứng cho việc hạt muối Bạc Liêu đã khẳng định được thương hiệu và có vị trí nhất định trên thị trường trong, ngoài nước.

Thương lắm muối ơi! ảnh 1
Muối Bạc Liêu không chỉ ngon, mà còn trở thành một sản phẩm giàu tính văn hóa thấm đẫm cái tình, cái nghĩa của con người Bạc Liêu.

Thủy chung với muối

Vào những ngày đầu tháng Chạp, trên những cánh đồng muối của huyện Đông Hải và huyện Hòa Bình, không khó để bắt gặp hình ảnh thân thuộc, hàng trăm diêm dân đang tất bật cho vụ muối mới. Những dáng người cần mẫn, mặn mòi như muối vẫn lặng lẽ làm việc dưới cái nắng chang nóng bức và trên môi họ luôn nở những nụ cười sáng bóng.

Có những hôm nắng cháy đến hoa cả mắt, nóng quá diêm dân phải nhảy ùm xuống kênh đắm mình cho mát, rồi lại tiếp tục leo lên phơi mình làm việc, đến nỗi, những tấm lưng trần đen trũi ấy ánh loáng như gương. Nghề muối cực và vất vả vậy đó, nhưng chẳng mấy diêm dân nghĩ đến chuyện bỏ nghề, kể cả ngay ở những thời điểm bị những cơn mưa trái mùa làm cho những mẻ muối to đùn tan theo bọt nước, cướp mất hết tất cả thành quả của diêm dân... Nước mắt diêm dân hòa vào vị mặn của nước mưa.

Tôi còn nhớ những lời tâm sự của chú Tư Thanh, một gia đình đã bốn đời gắn bó với hạt muối. “Vì đây là nghề cha truyền con nối nên nghề muối có vất vả, cực nhọc đến đâu cũng chưa ai nghĩ đến chuyện bỏ nghề. Thậm chí, có những vụ mùa mất giá, diêm dân phải đắng lòng vác bao muối cả chục kg để đi đổi lấy một kg gạo, nhưng không hiểu sao diêm dân vẫn cứ yêu cái nghề này như một thứ tình yêu ăn sâu trong máu”, chú Tư Thanh bộc bạch.

Phải rồi, làm sao mà bỏ muối cho được bởi diêm dân đã thương cái vị mặn mà của muối nên hễ “đi xa là nhớ”. Đây cũng là lý do mà bao đời nay diêm dân dù có lao cực đến đâu vẫn cứ chung tình với muối, họ thương muối như một thứ tình yêu cuồng nhiệt mà soạn giả Ngô Hồng Khanh đã thể hiện trong bài “Biển cạn” như: “muối Long Điền mặn nghĩa thủy chung”, hay “cá kèo kho muối Bạc Liêu, lấy chồng quê biển thêm yêu Gành Hào”…

Rồi nhiều xóm làng ở xã Long Điền cũng được gọi là xóm muối, hay ấp Diêm Điền thì có đến hàng trăm hộ dân đều sống bằng nghề làm muối. Không yêu, không gắn bó với muối sao được, khi tình yêu giữa người và muối đã đi vào thơ ca và nảy nở nên thứ tình yêu mãnh liệt, rồi không biết bao nhiêu đôi trai, gái đã kết duyên thành vợ, thành chồng của từ những ngày vất vả trên đồng muối.

Hành trình của chúng tôi lại tiếp tục băng bên những sân muối vừa được diêm dân lăn bóng nhẵn. Chợt nghe đâu đó vang lên câu ca dao hào sảng “chừng nào chưa cạn Biển Đông, Bạc Liêu còn muối anh không sợ nghèo”, câu ca thoáng có chút ngậm ngùi, nhưng niềm tin vào nghề muối lại tiếp tục được thắp sáng ước mơ để diêm dân thêm yêu thương hạt muối nhiều hơn. Phải chăng, trải qua bao gian lao và nhọc nhằn của một kiếp nhân sinh mà hạt muối dường như đã thắm đẫm tình đất, tình người, khi vị mặn của giọt mồ hôi đã hòa vào hạt muối nơi đây để sản sinh ra chất keo dính chặt tình người với muối!

Và thế nên, dù khoa học-công nghệ đã phổ biến và tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất của nhiều ngành nghề, lĩnh vực, nhưng diêm dân Bạc Liêu vẫn giữ phương pháp sản xuất truyền thống. Vì với họ, làm hạt muối theo phương pháp này, muối mới ngon. Thế nên, các cánh đồng muối vẫn được cải tạo bằng cách lăn “hủ lô” làm cho sân phơi bóng láng mới tiến hành lấy nước biển vào qua hệ thống kênh thủy lợi nối thông với biển. Sau này, đồng muối đã được áp dụng và khuyến khích nhân rộng mô hình sản xuất muối trắng trên sân trải bạt. Đó là cách diêm dân dùng bạt nhựa để trải trên mặt sân phơi và sản phẩm tạo ra là muối trắng với năng suất cao hơn…

Để phát huy giá trị mang lại từ hạt muối và khuyến khích diêm dân gắn bó với nghề truyền thống, Bạc Liêu đã ban hành Kế hoạch tái cơ cấu ngành gắn với phát triển nghề muối theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững. Đến nay, Bạc Liêu có tổng diện tích sản xuất muối gần 15.000 ha và cho tổng sản lượng gần 80 nghìn tấn/năm.

Nghề sản xuất, chế biến muối đã và đang được xây dựng thành mô hình phục vụ cho phát triển du lịch. Bên cạnh phát triển công nghiệp chế biến muối ăn, muối xuất khẩu, Bạc Liêu còn phát triển các sản phẩm từ muối phục vụ cho y tế, nhằm góp phần nâng cao giá trị của hạt muối.

Ông Trần Văn Thưa, Chủ tịch Hội đồng quản trị Hợp tác xã Diêm Điền (huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu) phấn khởi cho hay, năm nay, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổ chức festival muối ở Bạc Liêu. Nghe tin này diêm dân mừng không ngủ được vì nghề muối được tôn vinh. Nhưng điều mà diêm dân cần là sau festival, giá muối và đầu ra của hạt muối được bền vững hơn. Nghề muối ở Bạc Liêu đã được công nhận là di sản văn hóa rồi thì diêm dân phải khá, phải giàu mới đã.

Một mùa xuân mới lại về và sắc xuân như tràn ngập trên những cánh đồng bạt ngàn ánh bạc. Những bông hoa muối bung nở lấp lánh dưới nắng xuân như hứa hẹn một vụ bội thu và diêm dân chắc chắn sẽ giàu lên từ hạt muối.

Thương lắm muối ơi! ảnh 2

Diêm dân Bạc Liêu vẫn giữ phương pháp sản xuất truyền thống, vì với họ, chỉ như vậy hạt muối mới ngon, mới bóng đẹp.