1/ Làng thúng chai Phú Mỹ (xã An Dân, huyện Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên) nổi tiếng với những chiếc thuyền thúng bền, đẹp đã có truyền thống cả trăm năm nay. Thuyền thúng rất phổ biến ở các vùng biển dọc miền duyên hải Nam Trung bộ. Chiếc thuyền nhỏ bé, nhưng theo tay người xoay tròn, lại có thể vượt sóng một cách linh hoạt. Nó là dụng cụ mưu sinh đắc lực của những ngư dân.
Hàng tre dọc bờ sông Nhân Mỹ là nguyên liệu chính để làm nên những chiếc thúng chai Phú Mỹ nổi danh. Người làng vẫn tự hào rằng sở dĩ thuyền thúng của mình bền đẹp, trước nhất là nhờ tre. Đất và nước sông Nhân Mỹ này đã sinh ra thứ tre dai, xanh óng, chịu nước. Thế nên, tre được người làm nghề chọn mua đều là tre trong vùng. Không kể, nhà nào làm nghề cũng đều dành riêng một diện tích đất trồng tre làm nguyên liệu dự trữ. Chất tre tốt, lại qua tay chọn kỹ càng của người làm nghề, chất lượng chiếc thuyền thúng làm ra hẳn nhiên sẽ được đánh giá cao.
Gia đình bà Nguyễn Thị Lan là một trong những hộ còn giữ nghề làm thúng chai lâu năm và có uy tín trong làng. Tre được chọn mua và đưa về bãi đất trước nhà bằng đường sông. Tất cả những cây tre này đều có tuổi từ 1 năm tới 1 năm rưỡi, là lúc chúng đạt được độ săn chắc, dẻo dai nhất. Tre quá già sẽ bị cứng giòn. Tre quá non sẽ bị mềm, mau rút. Còn cây nào cụt ngọn thì thân bủng, phơi một nắng là gẫy nan, dễ bị mối mọt. Cứ cố dùng những loại tre ấy mà đan, thúng sẽ hỏng cả về kiểu dáng lẫn chất lượng. Bà Lan nói cây tre của Phú Mỹ có nhiều ưu điểm, mà lúc chọn tre, người Phú Mỹ cũng cẩn thận với từng cây.
Một cây tre dài sẽ sử dụng được hầu như toàn bộ. Tre được đo theo đường kính của loại thúng mà cưa thành đoạn. Phần dưới gốc, thịt dày, cứng hơn dùng để làm vành thúng. Phần trên ngọn, mảnh và dẻo hơn, sẽ được vót để đan thân thúng, người làm nghề gọi là đan mê thúng. Hơn 20 tuổi, hơn 10 năm quen với việc đan thúng của gia đình, bây giờ anh Nguyễn Hữu Lộc, con trai bà Lan đã quen với công việc này tới nỗi, đôi tay, đôi chân của anh cứ thế mà nhịp nhàng theo từng đường cưa.
Tre được cưa xong được chẻ ra thành những nan nhỏ bằng con dao quắm có đầu lưỡi cong khoằm, cực kỳ sắc. Việc chẻ tre không chỉ đơn giản là dùng sức, mà còn phải khéo, lựa đúng thớ tre mà lách dao, tách tre thành nhiều mảnh. Nhìn thì có vẻ đơn giản, nhưng đấy là bởi người đã quen tay, đã thạo việc. Dao sắc, mảnh tre cũng sắc ngọt. Những người làm đều dùng tay trần để có thể cảm nhận rõ rệt đường dao tách dọc thân tre. Dùng tay trần, lực cũng mạnh hơn, làm sẽ nhanh hơn. Đảm nhận phần việc này đều là đàn ông trong nhà. Bởi chỉ đôi tay người đàn ông mới đủ mạnh để giữ phần tre nặng, cầm con dao to. Những vết sẹo cắt ngang dọc cũng vì thế mà nối nhau cứa chai dầy đôi tay người làm thúng. Nan tre chẻ xong được phạt sạch mắt, dùng dao róc bỏ phần thịt tre thừa, giữ lại phần cật tre mỏng và dẻo được vót nhẵn nhụi thành những nẹp tre dài để đan mê thúng. Lớp vỏ xanh cũng được cạo sạch. Có như thế, khi đan, nan thúng mới đều khít và thấm lớp dầu phủ chống nước sau này. Trước khi đan mê thúng, những nẹp tre được đem đi phơi nắng, phơi sương từ một đến hai ngày để tre ngót nước mà săn lại, dẻo dai hơn.
Công đoạn tốn nhiều thời gian nhất là đan mê thúng. Với loại thúng to, có khi mất gần cả ngày trời. Cách đan thúng nhìn đơn giản tựa như cách đan rổ, rá của người làm nghề thủ công, nhưng thực chất lại đòi hỏi những kỹ năng khó hơn rất nhiều. Vừa đan, vừa phải khéo léo dùng đột để đẩy từng nẹp tre khít chặt vào nhau mà không được để bất cứ chiếc nẹp nào bị nứt, gãy. Mê thúng đan xong phải đạt được tạo hình mềm mại mà chắc chắn, dẻo dai mà vững vàng.
2/ Đường vào khu tập trung các hộ làm nghề đan thúng chai của làng Phú Mỹ không rải đá, không đổ bê-tông. Bởi làm thúng chai ở đây, không thể thiếu đất, thiếu cát. Những nhà làm nghề như nhà bà Lan nhà nào cũng có phần sân đất. Ở đó, có bí quyết tạo khuôn cho những chiếc thuyền thúng nơi này. Không giống với những vùng làm thuyền thúng khác, người làng Phú Mỹ đào hố để lận thúng chứ không đóng cọc trụ trên mặt đất. Tùy theo mục đích sử dụng của từng loại thúng mà kích cỡ hố làm khuôn thúng có độ sâu, độ rộng khác nhau. Tấm mê thúng đặt trên miệng hố, dần cong rồi nằm lọt vào khuôn hố sau khi được giận đều bởi một chiếc chày lớn. Lúc này, người thợ dùng một chiếc thuốn dài nhọn đầu để bắt đầu tạo hình chiếc thúng. Tạo hình tới đâu thì dồn cát ẩm xuống ép chặt thành thúng tới đó. Khâu này rất tốn sức, lại phải thật khéo tay thì mới cho ra đời một chiếc thúng tròn đều chắc chắn được. Trai tráng như anh Lộc cũng phải mất tới chừng 30 phút mới có thể lận xong một chiếc thúng như thế này.
Khi khuôn thúng đã thành hình, khâu tiếp theo là phải lận cạp, hay còn gọi là nức vành. Yêu cầu đặt ra là phải cạp cho các nan chụm đều nhưng phải kín. Phần cật tre dày được vót trước đó được uốn thành nẹp tròn, lồng vào phần vành thúng và cạp chặt rồi được buộc lại bằng loại cước chuyên dụng. Tùy vào từng loại thúng mà người thợ sẽ làm các lớp vành dày hay mỏng, nhưng phải bảo đảm giữ thăng bằng tốt cho thúng khi di chuyển trên biển. Loại thúng bé dùng để di chuyển từ bờ ra thuyền thì chỉ cần 6 tới 7 cạp vành. Nhưng với những chiếc thúng chuyên dùng để đi câu mực, hay theo thuyền lớn ra khơi, thì phải lận tới 10, 12 cạp vành mới đủ vững mà xoay trở trước sóng gió.
Sau khi được sửa nguội, thúng được mang đi phơi nắng, chờ những khâu hoàn thiện cuối cùng. Đợi khi hoàn chỉnh, tùy kích cỡ, thúng sẽ bán được giá từ 900 nghìn đồng tới 2,5 triệu đồng.
Trong lúc đợi thúng thô phơi nắng, bà Lan, hoặc chồng bà sẽ đảm trách khâu kỹ thuật quan trọng là trét phân bò lên toàn bộ thúng. Bãi đất ven sông, vừa là nơi trữ tre, vừa là nơi phơi thúng, cũng gồm cả bãi trồng cỏ mía nuôi bò. Nhà bà cũng như nhiều nhà trong làng, có tới mấy khu nuôi bò được tạo thành nhờ những lũy tre như thế này. Người làng Phú Mỹ nuôi bò dùng làm sức kéo thì ít, mà để lấy phân trét thúng là phần nhiều. Bởi đó là loại chất kết dính đàn hồi mà không một loài động vật nào thay thế được. Nghe đâu, độ gắn kết của nó thậm chí còn tốt hơn cả nhựa đường và xi-măng.
Phân bò tươi được pha với nước theo tỷ lệ hợp lý, phần nhiều là từ kinh nghiệm, sao cho không quá khô, không quá nhão. Trét phân bò phải thật kỹ, để chúng bịt kín mọi khe, kẽ hở giữa những đường nan. Phơi nắng, phân bò khô lại, để khi xuống nước sẽ nở ra, trám hết các lỗ hở giữa các nan tre. Nếu không có phân bò thì nước sẽ ngấm vào trong, dù có dùng keo gì thay thế cũng không được. Thúng sau khi trét phân bò xong, sẽ được phơi khô dưới nắng hai đến ba ngày. Đến khi không còn mùi hôi tanh, chúng sẽ được phủ lớp dầu rái sau cùng.
3/ Xem cách người dân làm hỗn hợp dầu phủ, mới hiểu vì sao thuyền thúng còn được gọi là thúng chai. Hóa ra, người ta dùng một loại bột được xay ra từ vỏ cây chai, một loại cây thuộc họ dầu, pha cùng dầu hỏa rồi trộn đều với dầu cây rái theo một tỷ lệ nhất định, có tác dụng chống thấm cực cao, tạo thành hỗn hợp dầu chai. Tỷ lệ pha hỗn hợp như thế nào, đó lại là công thức bí mật riêng của từng nhà làm thúng. Khâu quét dầu phủ thúng được coi là khâu quyết định sự thành bại của sản phẩm. Quét không kỹ, không kín, thuyền ra biển sẽ ngấm nước - một thất bại hoàn toàn.
Sau khi quét đều, kín đủ hai lớp ngoài, ba lớp trong, thúng tiếp tục được phơi dưới nắng. Khi lớp dầu khô lại, tạo thành một tấm màng phủ bóng, bao bọc mê thúng khỏi nước biển, khiến thuyền thúng bền chắc vô cùng.
Bà Lan kể trước kia, thúng chai bán chạy ghê lắm. Nhưng cũng có một thời gian, tiêu thụ thúng chai chững lại, thúng composite lên ngôi. Thành ra hầu hết các hộ làm nghề trong làng đều không thuê nhân công làm thúng, cũng là để tiết kiệm chi phí. Nhưng người làng Phú Mỹ vẫn tự hào nói rằng, nếu được sử dụng và bảo quản hợp lý, tuổi thọ mỗi chiếc thuyền thúng nơi đây có thể lên tới 10, 15 năm. Trải qua những năm tháng lao đao khi thuyền thúng nhựa composite xuất hiện, nhiều hộ bỏ nghề, thì vẫn còn những người làm thúng chai như gia đình bà Lan ở Phú Mỹ vẫn giữ lấy nghề. Bởi họ nhận ra và giữ lòng tin của mình vào ưu thế của chiếc thúng chai. Tin rồi thì mạnh dạn làm. Đã làm thì phải giữ được chữ tín về chất lượng của từng chiếc thúng.
Bà Lan cũng bảo, mấy năm rồi, nhu cầu thuyền thúng cũng đa dạng, thúng chai lại dần có chỗ đứng. Nói thúng chai hồi sinh còn là chuyện phía trước. Nhưng dù còn nhiều khó khăn, những chiếc thuyền thúng nơi đây vẫn âm thầm tìm đường đi mỗi ngày. Nhỏ bé và giản dị, nhưng cũng thật cần mẫn và dẻo dai, kiên trì và bền bỉ như cốt cách của những người dân biển.
Những chiếc thúng chai vẫn ra biển, theo cách của riêng mình.