Trong vai trò như một hướng dẫn viên du lịch, cô gái sinh năm 1989 cho biết, tại Đa Sỹ (phường Kiến Hưng, Hà Nội) có hai điều để nói, một là nhà nào cũng có một hố than đen sì để phục vụ cho việc rèn dao và hai là từ mùa hạ sang mùa đông, ngọn lửa lò rèn luôn cháy rực. Ngọn lửa chưa bao giờ tắt đó không chỉ tôi thép mà còn là ngọn lửa của sự sống, là sinh kế của mỗi gia đình ở một làng nghề truyền thống đã tồn tại hơn 600 năm.
Bản giao hưởng của cuộc sống
Đi từ đầu làng đến cuối làng, một điều cảm nhận rất rõ ở Đa Sỹ là tiếng búa chan chát. Qua nhà này lại nghe thấy ở nhà kia, cứ như thể không dứt được. Thật khó để quen với âm thanh ồn ào này khi lần đầu tới đây và tôi đã tự hỏi không hiểu người dân tại đây ngủ thế nào hay có thấy khó chịu không. Vậy nhưng, với Thủy và những người cùng thế hệ 8x như cô hay xa hơn nữa về trước, họ lại xem đó là bản giao hưởng của cuộc sống, là thanh âm quen thuộc ru cô vào những giấc ngủ trưa. Tiếng búa, tiếng máy mài, tiếng gọt giũa… tất cả hòa quyện, trở thành một phần không thể thiếu của ký ức, của những ai lớn lên trên mảnh đất này.
Vì thế, khi chiếc xe ô-tô 20 chỗ dừng lại ở đầu ngõ, tiếng cười nói của nhóm học sinh Trường Dwight Hà Nội càng làm không gian của làng nghề trở nên huyên náo hơn. Điểm dừng chân của những học sinh Việt Nam, Hàn Quốc, Indonesia… là Xưởng rèn dao kéo Hoàng Tùng. Theo thầy giáo Paul Curran, chuyến đi này là một buổi trải nghiệm ngoại khóa, để các em được tận mắt chứng kiến và trực tiếp tìm hiểu về quá trình tạo nên một chiếc dao bếp, sản phẩm mang đậm tinh hoa nghề rèn Việt Nam.
Khi tôi và Thủy bước vào xưởng rèn, chúng tôi đã thấy ông Tùng và vợ chuẩn bị đầy đủ cho “buổi trình diễn”, từ việc xếp ghế ngồi, chuẩn bị nước, đồ ăn nhẹ cho các em học sinh, đến việc nổi lửa, sắp sẵn những phôi dao ra khay. Sau màn chào hỏi và giới thiệu sơ qua lịch sử làng nghề Đa Sỹ, ông Tùng tận tình trình từng công đoạn như chọn thép, tạo phôi, tôi luyện, mài sắc, hoàn thiện lưỡi dao và gắn chuôi dao.
Tiếp đó, người nghệ nhân rèn sinh năm 1963 lấy những phôi dao có sẵn thực hiện các bước như tôi luyện, mài sắc… Ở bên cạnh, bà Tâm, vợ ông, như một trợ thủ đắc lực. Mặc dù bận việc gia đình, bà vẫn giúp chồng trong ở một số bước như định hình lưỡi dao và nhất là gắn chuôi dao.
Không chỉ xem, ghi chép cẩn thận, các em học sinh còn được thực hành một số bước đơn giản, giúp chúng hiểu rằng, phía sau một chiếc dao là cả quá trình lao động đầy kỹ thuật, kiên nhẫn và niềm đam mê. Thầy Curran cho biết, buổi trải nghiệm không chỉ giúp học sinh Trường Dwight Hà Nội hiểu thêm về văn hóa, nghề truyền thống của Việt Nam, mà còn giúp các em rèn luyện khả năng quan sát, tư duy, đặt câu hỏi và cảm nhận giá trị của lao động thủ công. Sau chuyến thăm, các em sẽ viết bài thu hoạch về những gì mình học được, như một cách chúng lưu giữ trải nghiệm và lan tỏa sự trân trọng đối với nghề rèn.
Rời xưởng rèn, khi tiếng búa, tiếng máy mài còn vang đọng phía sau lưng, tôi đã hiểu vì sao những người như Loan luôn nói rằng, ngọn lửa ở Đa Sỹ chưa từng tắt. Nó cháy trong lò rèn, trong đôi tay chai sạm của vợ chồng ông Tùng và cả trong ánh mắt tò mò, chăm chú của những đứa trẻ vừa trải qua buổi học khác lạ. Giữa nhịp sống đổi thay, hình như chính những khoảnh khắc nhỏ ấy đang thắp thêm một niềm tin rằng, nghề rèn nơi đây vẫn còn đường để bước tiếp.
Tiếp lửa nối nghề
Bên trong cửa hàng giới thiệu sản phẩm của Xưởng rèn dao kéo Hoàng Tùng, tôi được ông Tùng chia sẻ, ở Đa Sỹ, những nghệ nhân rèn như ông không còn nhiều. Nhẩm tính thì ông cũng đã có hơn 40 năm gắn bó với nghề rèn. Từ nhỏ, ông được làm quen với việc làm dao, kéo từ bố, mẹ và các bậc cao niên trong làng. Năm 1984, ông đi bộ đội, đóng quân tại Vị Xuyên (Hà Giang cũ) và tham gia vào cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía bắc những năm 1984-1986. Năm 1986, ông xuất ngũ về lập gia đình và mở xưởng rèn tại nhà, phát triển nghề làm dao kéo thủ công cho đến nay.
Ngoài Xưởng rèn dao kéo Hoàng Tùng nổi bật về dao thái, lọc, Đa Sỹ có hơn 200 hộ vẫn duy trì sản xuất, trong đó có những hộ đã tạo được thương hiệu riêng về dao chặt, dao bầu, hay kéo... Theo ông Tùng, ông thường làm dao bằng nhíp xe, kỹ thuật tôi luyện kỹ, tỉ mỉ trong từng công đoạn nên sản phẩm có độ cứng, bén, bền hơn các loại dao thông thường. Vì thế, dao Hoàng Tùng, sản phẩm được công nhận OCOP 3 sao, đã được xuất khẩu tới Đức, Ba Lan, Australia, Séc, Các Tiểu vương quốc Arab thống nhất… Thậm chí, ông còn gia công dao cho một số thương hiệu dao nổi tiếng thế giới như Tiger Slice Messer, Black Chilli, Knife Out…
Năm 2020, ông Tùng được Hiệp hội Các làng nghề Việt Nam phong tặng danh hiệu Nghệ nhân rèn và thời điểm đó đã mở ra một hướng đi mới cho Xưởng rèn dao kéo Hoàng Tùng trong việc kết hợp làng nghề-du lịch. Năm đấy, khi đưa ông Tùng sang Bát Tràng nhận danh hiệu, con gái ông, Hoàng Bích Phượng, có ý tưởng xây dựng những tour trải nghiệm tại Đa Sỹ và các khóa học làm dao. Tuy vậy thì cũng phải đợi đến năm 2024, như Phượng cho biết, cô mới bắt đầu thực hiện một cách bài bản sau khi tìm hiểu, học hỏi kinh nghiệm và liên kết với một số hướng dẫn viên du lịch, đồng thời quảng bá xưởng rèn trên mạng xã hội hay trang web. Có thể xem đây là một hướng đi mới cho Đa Sỹ, khi những người trẻ như Phượng, từng là kỹ sư ngành môi trường, đang dần quan tâm nhiều đến nghề rèn của quê hương. Thậm chí, họ yêu và trân trọng hơn công việc của các bậc cha chú và cảm thấy có trách nhiệm phải gìn giữ, quảng bá hình ảnh làng nghề truyền thống.
Nhờ đó, dù cái tên Đa Sỹ đã được biết lâu đến như một nơi làm dao nổi tiếng, diện mạo làng nghề ngày nay cũng thay đổi mạnh mẽ nhờ việc duy trì chất lượng sản phẩm và khả năng thích ứng nhanh với thị trường, nhu cầu của người sử dụng. Tuy vậy, nỗi lo lớn nhất ở Đa Sỹ, giống như nhiều làng nghề khác, là giữ được nghề và cần có nhiều “người giữ lửa”, như trăn trở lâu nay của ông Tùng.
Theo doanh nhân Ngô Quý Đức, người có ý tưởng xây dựng không gian Phường Bách Nghệ (Hà Nội) trở thành trung tâm nghiên cứu, phát triển và ứng dụng tạo ra các sản phẩm văn hóa cho làng nghề Việt Nam, để mọi người hiểu được giá trị của di sản để trân trọng; tìm kiếm, đào tạo và truyền lại ngọn lửa này cho một thế hệ kế cận; để di sản có thể "sống" được trong thời đại mới, có giá trị kinh tế, nhưng vẫn phải bám rễ thật sâu vào nền tảng giá trị xưa mà tiền nhân để lại là một thách thức rất lớn, đòi hỏi sự chung tay của cộng đồng.
Thời gian rồi sẽ trả lời tất cả, còn hiện tại, tiếng búa vẫn đều đặn dội ra từ sâu trong những con ngõ nhỏ, như nhịp thở của Đa Sỹ. Ở đó, có những người thợ đã dành cả đời bên bễ lò như ông Tùng; có những người trẻ như Phượng, Thủy đang gắng tìm một lối đi mới cho nghề; và có cả những lớp học sinh, những vị khách phương xa, đến rồi mang theo chút ấn tượng về đôi tay Việt Nam cần mẫn. Vì thế, chỉ cần còn những đôi tay giữ lửa, còn những người trẻ sẵn lòng dấn bước, thì câu chuyện về làng nghề rèn dao sẽ còn được kể mãi, bằng lửa, bằng thép và bằng niềm tin như đã từng suốt mấy trăm năm qua.