Vậy mà số phận vẫn sắp đặt người lính vào đúng vị trí cần có, vẫn là đối mặt với máy bay địch, nhưng theo một cách khác.
Ông đã gia nhập lực lượng bộ đội cao xạ 12 ly 7 tỉnh Nghệ An, làm nhiệm vụ bảo vệ các trọng điểm ác liệt như Cầu Cấm, Sân bay Vinh và Cửa Lò. Tháng 6/1966, anh lính cao xạ Hoàng Văn Nam cùng 28 chiến sĩ Nghệ An được gọi ra Hà Nội học tên lửa.
Sự tôi luyện tại trận địa thép
Việc chuyển từ khẩu đội cao xạ sang binh chủng tên lửa là một thử thách khó khăn, bởi ông phải tiếp xúc với khí tài "quá hiện đại" mà trước đó chưa bao giờ được nhìn thấy. Do thiếu thốn phương tiện, quá trình học tập diễn ra gian khổ, phải dựa vào việc học qua mô hình và vẽ ra giấy.
Những ngày học tên lửa với ông là cả một bầu trời kiến thức mới. “Mình có niềm tin là vì tên lửa chúng ta đã đánh thắng trận đầu năm 1965 rồi, mình cứ học thôi”, ông Nam nhớ lại, “Mình từ nông thôn lên, dù cũng đã tốt nghiệp cấp 3 nhưng lần đầu nhìn thấy vũ khí hiện đại thế, mà mình mới học có mấy từ tiếng Nga”. Hầu hết việc thực hành của ông và đồng đội đều là “học khan”. Họ vẽ mô hình ra giấy, học thuộc trên các mô hình đó vì không có đủ phương tiện thực tế.
Tháng 5/1967, ông Nam bắt đầu trở thành một trắc thủ cự ly. Tháng 7, ông Hoàng Văn Nam trực chiến ở trận địa Minh Kha (An Hải, Hải Phòng). Chỉ hai ngày sau khi nhận nhiệm vụ, đơn vị ông chịu một đợt không kích dữ dội. Chỉ trong một buổi, máy bay địch bắn tới 32 quả rocket vào trận địa. Ba chiến sĩ hy sinh ngay trên trận địa, trong đó có hai chiến sĩ máy nổ và một chính trị viên đại đội, khí tài bị hỏng nặng, hai máy nổ bị cháy.
“Có nao núng đó”, ông Nam thừa nhận. Có người không dám trực khi trời nắng hoặc khi máy bay địch bay tới nhiều. Một số vị trí phải đưa người khác từ trung đoàn về thay thế. Ở vị trí này, không có thời gian cho những phút giây run tay. Ông Nam hiểu điều đó: “Mình xác định là nhiệm vụ chiến đấu đi, mình phải học cách quen”. Kíp tên lửa vẫn bám vững vị trí chờ ngày trả thù cho đồng đội.
Bốn tháng sau, kíp tên lửa của ông Nam bắn rơi chiếc cường kích A-4 tại trận địa Đồng Gia (Kim Thành, Hải Dương cũ) vào ngày 18/9/1967. Đó là một trận “dễ đánh”, nhưng nó lại giải tỏa tâm lý cho toàn đơn vị, sau ngày đau thương trên trận địa Minh Kha. “Mọi người phấn khởi tự tin hơn hẳn”, ông Nam nhớ lại.
Chiếc A-4 có nhiều nhiễu tạp nhưng không làm khó được cả ê-kíp đã được huấn luyện kỹ càng về các loại nhiễu. “Nhiễu tạp có thể không ảnh hưởng tới góc bám sát nhưng có thể ảnh hưởng tới cự ly, nếu phụ thuộc vào bám sát tự động thì có thể mình sẽ không bắt được chính xác mục tiêu”. Kỹ năng ngắm bắn tên lửa của ông Nam được tôi luyện qua mỗi trận đánh khó khăn. Ngày 19/4/1969, kíp tên lửa của ông Nam đã hạ được một chiếc máy bay trinh sát không người lái 147-S, theo cách bám sát mục tiêu bằng tay ở gần cảng Hải Phòng.
“Khi mục tiêu bay vào vùng địa vật sẽ bị vật cản che khuất, nếu cứ để chế độ bám sát tự động sẽ khiến tên lửa nổ vô ích”, ông Nam kể lại. Thời điểm ấy, ông chủ động chuyển sang bám sát bằng tay, giữ được mục tiêu khi nó bay ra khỏi địa vật. Kíp tên lửa đã thành công bắn rơi máy bay địch ngay tại chỗ.
Chia lửa cùng Hà Nội
Tháng 7/1972, Hoàng Văn Nam chính thức trở thành Sĩ quan điều khiển tên lửa. “Đó là một quá trình mình rèn luyện và trưởng thành, học hỏi kinh nghiệm và đúc rút qua các trận đánh”, ông Nam tự tổng kết, “trở thành sĩ quan điều khiển trọng trách nặng nề hơn rất nhiều”. Người sĩ quan điều khiển không chỉ nhìn màn hình để bám mục tiêu mà phải bao quát toàn cục trận đánh. Nhưng ông Nam bảo kinh nghiệm làm trắc thủ giúp ông hiểu rõ điểm mạnh yếu của từng vị trí dưới quyền, từ đó chỉ huy dễ dàng và ôn hòa hơn.
Trước đó, ông đã kịp ghi vào bảng thành tích bắn tới 28 máy bay địch, trong đó có 18 chiếc rơi tại chỗ. Trong suốt cuộc kháng chiến, Tiểu đoàn 52 bắn rơi 33 máy bay địch, riêng ông Nam đã trực tiếp tham gia vào 29 chiến công.
Chiến công đáng nhớ nhất của ông Nam diễn ra trong Chiến dịch Phòng không tháng 12/1972, chỉ vài tháng sau khi ông trở thành sĩ quan điều khiển. Đêm 18/12/1972, Tiểu đoàn 52 của ông đóng quân ở Nghĩa Đàn (Nghệ An). Mặc dù đã được tập huấn, phổ biến, nhưng đó là lần đầu ông Nam trực tiếp đối mặt với siêu pháo đài bay. Lúc ấy, ba chiếc B52 vừa gây tội ác trên bầu trời Hà Nội, đang trở về căn cứ. Chúng bay theo đội hình, sử dụng khoảng 45 máy gây nhiễu, tạo thành một vệt đậm đặc che kín màn hình radar. Phương án bắn ba điểm được triển khai.
19 giờ 44 phút ngày 18/12/1972, quả tên lửa đầu tiên được phóng lên từ trận địa phía Hà Nội. 20 giờ 16 phút, quả tên lửa từ trận địa Đất Thịt (Nghĩa Thuận, Nghĩa Đàn, Nghệ An) cũng nhằm thẳng tốp B52 đang rút lui, chia lửa cho bầu trời Hà Nội. Sau quả tên lửa thứ 2, chiếc B-52 trúng đạn, bị thương phải hạ cánh gấp tại sân bay Đà Nẵng. Chiếc pháo đài bay bị hư hỏng nặng và không thể tái sử dụng sau đó.
TÌNH YÊU CHỚP NHOÁNG GIỮA LÀN BOM ĐẠN
Những ngày rong ruổi trên trận địa miền bắc đã đưa ông gặp người vợ hiện tại. Lần đầu ông gặp bà khi bà đang thực tập tại Phòng lương thực ở Minh Kha (Hải Phòng). Họ nhận ra nhau qua giọng Nghệ An đồng hương. Tốt nghiệp, bà về công tác tại Nghệ An, còn đơn vị ông lại cơ động về Nghi Khánh để bảo vệ kho hàng, đóng quân cách nơi bà ở chỉ khoảng một cây số.
Quyết định đi đến hôn nhân của họ được thúc đẩy bởi một tình huống sinh tử. Ngày 26/12/1971, trận địa Nghi Khanh bị trúng tên lửa Shrike của địch. Quả tên lửa trúng bệ phóng, làm bị thương một chuyên gia Liên Xô. Nhưng bà nghe tin lại lầm tưởng ông đã hy sinh, vội vàng đi bộ tới trận địa để thăm người yêu. Tới khi biết ông còn sống, họ quyết định phải lập tức tổ chức đám cưới. Giữa bom đạn, họ quyết tâm không thể bỏ lỡ nhau. Chiến tranh tứ tán, không có nhiều thời gian, ông Nam một mình đến nhà gái xin phép đặt lễ hỏi. Hôn lễ được tổ chức chớp nhoáng vào tháng 1/1972 tại Nghi Đức. Hai ông bà chỉ ở bên nhau có bảy ngày, sau đó, ông Nam phải cùng đơn vị hành quân gấp vào Quảng Bình để tham gia chiến dịch Trị Thiên.
Chiến công của ông Nam và đồng đội ở Tiểu đoàn 52 không được công nhận ngay tại đó. Mọi thứ rơi vào khoảng lặng, giống như khi quả tên lửa nhằm trúng mục tiêu, màn hình radar chỉ hiện một không gian im lìm. Sau mỗi lần tên lửa nổ trúng mục tiêu, ông Nam và kíp chiến đấu không bao giờ có thời gian để hò reo ăn mừng. Sĩ quan điều khiển phải lập tức ấn nút hạ cao thế và ra lệnh quay ăng-ten để tránh bị phản kích, bởi lẽ chậm trễ chỉ một giây cũng có thể dẫn đến cái chết cho cả đài điều khiển. Đó là bài học xương máu trong binh chủng tên lửa để đối phó với tên lửa Shrike.
Mãi tới năm 1973, chiến công này mới được ghi nhận là chiếc máy bay B52 thứ hai bị tiêu diệt trong Chiến dịch Phòng không tháng 12/1972.
Rất nhiều năm sau, ông Nam kể lại câu chuyện đó, bằng thái độ nhẹ nhàng và bình thản. Khoảng lặng chờ đợi công nhận, giữa nhiều tranh luận, có thể đó là một phần của sự kiên nhẫn cần phải có. Trung tướng Nguyễn Văn Phiệt từng nói rằng, “Chuyện của Nam, chuyện của quê hương cách mạng của Nam có quá nhiều điều hay”. Không phải ai cũng có đầy đủ sự kiên trì, bền bỉ đi qua từng vị trí, rồi trở thành một sĩ quan điều khiển bắn hạ B-52.
Ông Nam về hưu với quân hàm Thiếu tá. Ngày 10/8/2015, ông được Chủ tịch nước ký quyết định phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.