Đổi mới là tất yếu
Đổi mới văn học Việt Nam (bắt đầu từ năm 1986) trong cái nhìn biện chứng là một tất yếu. Nói tất yếu hàm nghĩa trên hai phương diện chính: Đổi mới là quy luật nội tại, thường trực của nghệ thuật, trong đó có nghệ thuật ngôn từ (văn học). Nghệ thuật sẽ chết nếu không luôn luôn tự đổi mới chính mình. Ở Việt Nam trong thế kỷ 20, ít nhất có ba cuộc đổi mới văn học diễn ra vào ba thời điểm đầu, giữa và cuối thế kỷ. Nhưng như cổ nhân nói về điều kiện đủ cho một cuộc cách tân bất kỳ nào đều cần tích hợp các yếu tố “thiên thời - địa lợi - nhân hòa”. Đổi mới văn học Việt Nam (từ năm 1986) sẽ chậm chạp hơn, khó khăn hơn nếu thiếu yếu tố “nhân hòa”. Ở đây “nhân hòa” được hiểu là sự thống nhất sâu rộng của “ý Đảng lòng dân”. Những người viết lịch sử văn học đương đại Việt Nam (từ sau 1975) sẽ không thể bỏ qua sự kiện có ý nghĩa chiến lược và nhân văn có tác dụng thúc đẩy quá trình Đổi mới văn học tăng tốc, đi vào quỹ đạo mới- đó là cuộc gặp gỡ của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh với văn nghệ sĩ ngày 6 và 7-10-1987. Bài nói chuyện của Tổng Bí thư với đại diện giới văn nghệ sĩ có ý nghĩa như một cương lĩnh văn nghệ thời kỳ mới. Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, Tổng Bí thư đã thẳng thắn chỉ ra những thiếu sót của lãnh đạo văn nghệ: “Sự lãnh đạo của Đảng trong nhiều năm qua còn xem nhẹ, đánh giá thấp vai trò của công tác văn hóa, văn nghệ và vị trí của các văn nghệ sĩ, các nhà hoạt động văn hóa trong đời sống xã hội” (1). Thiết nghĩ ý kiến của Tổng Bí thư như là cách cởi tấm lòng giữa lãnh đạo và sáng tác văn nghệ. Tinh thần cởi mở (công khai) đã kích thích cho tinh thần dân chủ trong toàn bộ các lĩnh vực đời sống, đặc biệt lĩnh vực tinh thần. Cũng trong bài nói chuyện của Tổng Bí thư khái niệm “cởi trói” được đưa ra và vận dụng như một liệu pháp tinh thần dân chủ (cởi trói trước hết từ phương diện tổ chức, chính sách, quy chế, chế độ trước tiên). Về phía văn nghệ sĩ, Tổng Bí thư khuyến nghị: “Hãy tự cứu lấy mình trước khi trời cứu”(2) đồng thời khích lệ: “Người nghệ sĩ phải có con mắt tinh tường để phát hiện những cái mới mẻ. Như vậy, văn học nghệ thuật mới đóng được vai trò đi trước trong đời sống tinh thần của xã hội” (3). Có thể nói, sau sự kiện lịch sử này “lòng dân” đã tỏ. Điều đáng quan tâm chính là khát vọng đổi mới văn học thời kỳ đầu không thuộc về một lớp nhà văn mới mà lại chính từ thế hệ từng tham gia hai cuộc kháng chiến. Vì thế Đổi mới văn học không thể hiểu là cách cắt khúc có tính cơ học trước và sau, cũ và mới, già và trẻ. Không phải là một sự đoạn tuyệt hay phủ định sạch trơn. Cũng có quan niệm cho rằng Đổi mới văn học biểu thị sự hòa nhập thế giới trong xu hướng toàn cầu hóa về văn hóa vì thế giới ngày nay là “thế giới phẳng”. Đúng nhưng chưa đủ. Đổi mới là một sự vận động tự thân, nội tại, trước hết từ chính những yêu cầu của nội bộ văn học dân tộc. Đi hết “cái dân tộc” cũng có thể có đóng góp cho “cái nhân loại” (chứ không thể là ngược lại).
Đổi mới là một quá trình
Đổi mới văn học không phải từ trên trời rơi xuống hay dưới đất mọc lên một cách bất ngờ, có tính ngẫu nhiên, thời đoạn. Nó là một quá trình biện chứng (liên tục, thăng trầm, quanh co, phức tạp). Chúng ta quen nói về Đổi mới văn học từ 1986. Nhưng ít người quan tâm đến cái gọi là “tiền đổi mới”, trong khi chính nó mới gợi mở nhiều suy nghĩ thấu đáo hơn về diễn trình văn học dân tộc thời hiện đại. Trong khoảng 10 năm (1975-1985), văn học trải qua giai đoạn được gọi là “quán tính” (nghĩa là về cơ bản không khác nền văn học trong chiến tranh trên các phương diện cảm hứng, nhân vật, kỹ thuật viết, cách thức quảng bá, tiếp nhận,...). Nhưng cũng chính trong giai đoạn có tính bước đệm, giao thời này đã bộc lộ cái động hướng của văn học trong thời kỳ lịch sử mới. Đã có một cuộc chuẩn bị âm thầm nhưng quyết liệt cho những thay đổi tích cực trong sáng tác văn học được khởi xướng bởi chính một lớp nhà văn đã kinh qua hai cuộc chiến tranh thần thánh, kể cả công cuộc tái thiết miền bắc sau 1954. Hơn thế có nhà văn được tấn phong danh hiệu “đi tiên phong” trong phong trào Đổi mới văn học, như Nguyễn Minh Châu, thì những sáng tác thành công nhất của ông lại cũng gói gọn vào mười năm 1976-1985. Cũng như sẽ là sâu sắc hơn, chẳng hạn, nếu viết về chiến tranh nhà văn thường chọn khoảnh khắc “trước giờ nổ súng”. Ở khoảng hạn thời gian đó thường là một cuộc chuẩn bị toàn diện cho con người tham gia vào các biến cố của chiến tranh. Tương tự, nếu nhìn lại Đổi mới văn học (bắt đầu từ năm 1986), giai đoạn “tiền đổi mới” (1975-1985) là thời gian tích lũy kinh nghiệm, nuôi dưỡng cảm hứng, trang bị kỹ thuật mới, tiến hành những thể nghiệm nghệ thuật (có thể thành công, thậm chí có thể thất bại, nhưng “một lần ngã là ba lần bớt dại”).
Quá trình Đổi mới văn học trong vòng 30 năm (1986-2016) thường được giới nghiên cứu chia ra ba phân khúc: 1986-1990 (như là cao trào), 1991-2000 (chuyển động trên “đường ray” Đổi mới), 2000-2016 (phát triển thiếu bền vững). Phân khúc như thế trong cách nhìn nhận và đánh giá văn học Đổi mới là không sai nhưng chưa thấu triệt theo tinh thần biện chứng. Nếu vẽ đồ thị phát triển thì sẽ thấy văn học đi theo hình “sin”. Văn học 30 năm Đổi mới, nói một cách chính xác thì “thăng”, “trầm” bất thường, liên tục. Bởi vì nó không phải là những phong trào xã hội, nó thuộc về những cá nhân sáng tác - những cá nhân có tài năng. Mà tài năng thì “như lá mùa thu”. Văn học ngày càng trở nên không còn là “ngôi đền thiêng” như trước. Cơ chế thị trường đang dần dần điều tiết cả văn học, một phạm trù trước đây được coi là vô tư, phi lợi nhuận. Văn học đang dần dần bị đẩy ra xa khỏi trung tâm văn hóa. Văn hóa đọc đang bị cạnh tranh bởi văn hóa nghe nhìn và ngành công nghiệp giải trí đang chiếm lĩnh thị phần của văn học. Nghĩa là văn học Đổi mới đang tồn tại trong một không gian và bầu khí quyển có tính bất lợi cho sự phát triển. Muốn phát triển liên tục và bền vững, văn học phải thật sự “thay máu”, phải đối diện với vấn đề có tính triết học “tồn tại hay không tồn tại”, như một câu hỏi được đặt ra trong vở bi kịch Hamlet vĩ đại của thiên tài văn học Shakespeare.
| Muốn phát triển liên tục và bền vững, văn học phải thật sự “thay máu”, phải đối diện với vấn đề có tính triết học “tồn tại hay không tồn tại”, như một câu hỏi được đặt ra trong vở bi kịch Hamlet vĩ đại của thiên tài văn học Shakespeare. |
Những bài học lịch sử
Nếu nói văn học Đổi mới (1986-2016) phát triển thiếu bền vững thì rõ ràng cần phải truy tìm nguyên nhân chính yếu của nó. Có ý kiến cho rằng văn học chậm phát triển là do cơ chế kiểm duyệt, nhà văn chưa được tự do “nhúng tay vào sự thật” khi viết. Lại có ý kiến đề cập cơ chế thị trường với mặt trái của nó đã tước đi ngôi vị trung tâm của văn học trong ngôi đền văn hóa. Thậm chí có ý kiến cho rằng thời mở cửa, hội nhập làm cho người đọc có đủ điều kiện so sánh văn học Việt với thế giới, từ đó nảy sinh tâm lý “vọng ngoại”, quay lưng với sản phẩm tinh thần dân tộc. Với triết lý “người đọc là Thượng Đế” nên họ có quyền lựa chọn sách đọc tùy theo... túi tiền của mình.
Theo chúng tôi, những kiến giải nói trên chưa thuyết phục. Cần thiết phải trở về triết lý của cổ nhân “tiên trách kỷ hậu trách nhân”. Giả định, chúng tôi chỉ ra mấy nguyên nhân chính cản trở sự phát triển văn học trong tiến trình Đổi mới. Trước hết vốn liếng văn hóa của nhà văn chưa đủ lực, đủ tầm để tạo cho tác phẩm văn học như là những giá trị văn hóa bền vững. Nhà văn thời nay thiếu rất nhiều vốn liếng văn hóa truyền thống (cả vốn folklore, cả vốn văn hóa cổ truyền dân tộc). Có vẻ như xu hướng “vọng ngoại” (nhất là các cây bút trẻ thiếu bản lĩnh nghệ thuật) đang lấn át tinh thần giữ gìn bản sác văn hóa dân tộc (cả trong truyền thống, cả trong hiện đại). Nhà văn đang có xu hướng tự đào bới cái “tôi” của mình nên nhiều khi sao nhãng sự đòi hỏi cấp bách và cần thiết phải đi vào trung tâm lốc xoáy của đời sống nhân dân cần lao đang ngày đêm miệt mài phấn đấu cho một xã hội dân chủ, ấm no, hạnh phúc và văn minh. Nếu coi “văn học là nghệ thuật ngôn từ”, “văn hóa là ứng xử” thì đang có hồi còi báo động về thái độ của nhà văn với tiếng mẹ đẻ - tiếng Việt. Tinh thần giữ gìn sự trong sáng và giàu có của tiếng Việt đang bị mai một. Các lý thuyết nhập khẩu đang phát huy cả mặt mạnh lẫn mặt yếu của nó. Nhưng trong thực tế thì mặt yếu đôi khi lại trở thành mạnh, khiến cho nhà văn không khỏi lúng túng và kết quả là sáng tác văn học thậm chí có thể chuệch choạc.
Trong thực tiễn sáng tác văn học, chúng ta đang thiếu phần tinh hoa - tức những tác phẩm đỉnh cao. Bài học của quá khứ cho thấy cái quyết định phần tinh hoa là tài năng văn học. Đó là phần Trời cho. Đó cũng là phần Đời cho. Nhưng cũng chính là phần Người cho. Nhìn lại tiến trình văn học Đổi mới theo tinh thần “ôn cố tri tân”, thiết nghĩ, là một hành xử cần thiết đối với văn giới. Chúng ta tiến lên phía trước trên kinh nghiệm của quá khứ, cật vấn quá khứ chính vì tương lai của văn học.
-----------------
(1) Nguyễn Văn Linh - tuyển tập, tập 2. - Nxb Chính trị quốc gia, 2011, tr.214.
(2) Sđd, tr.217.
(3) Sđd, tr.220.