Tào Mạt thật sự trở thành kịch tác gia nổi tiếng sau khi bộ ba tác phẩm chèo lịch sử: Bài ca giữ nước được công diễn. Tuy nhiên, công chúng yêu thơ, nhiều người còn biết đến Tào Mạt với tập thơ chữ Hán đã được Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân ấn hành năm 1994, thời điểm ông đang ốm nặng, trong trạng thái hôn mê trên giường bệnh.
Hẳn sẽ không phải không có người hỏi: Là người Việt Nam thời nay, tại sao Tào Mạt lại phải làm thơ bằng chữ Hán? Hay là ông có ý khoe chữ? Song, những người sống gần Tào Mạt, hiểu ông, hiểu một chút nho học, thì lại nghĩ khác: Với cái vốn văn hóa cổ phương đông thâm hậu, uyên bác, Tào Mạt thể hiện các ý tưởng thơ của mình bằng chữ Hán hiệu quả hơn chữ quốc ngữ. Nhiều bài thơ của Tào Mạt cứ để nguyên chữ Hán đọc thấy rất hay, nhưng khi dịch (kể cả chính tác giả chuyển ngữ) thì cái sự hay đã giảm đi. Chẳng hạn, bài Tào Mạt viết tặng Ðại tướng Võ Nguyên Giáp, nhân dịp Ðại tướng 80 tuổi:
Lão tướng kim thu bát thập xuân
Tâm như minh kính phát như vân
Kỷ đa công đức lưu hà nhạc
Nhất khối tinh trung dị hậu nhân
Tào Mạt tự dịch:
Thu nay lão tướng tám mươi đây
Lòng tựa gương trong tóc tựa mây
Công đức bao nhiêu dâng đất nước
Tinh trung một khối tặng sau này
Thơ chữ Hán của Tào Mạt chỉ tính riêng trong tập đã in có tới 75 bài. Nếu tính cả những bài ông ngẫu hứng thủ bút tặng người đời thì chắc phải tới hàng trăm.
Trong tập thơ, ta sẽ thấy một số bài thơ xuân của Tào Mạt. Cũng như nhiều thi sĩ khác, thường Tết đến Xuân về là Tào Mạt lại khai bút bằng thơ. Xin thử đọc một trong số những bài ấy.
Quý Dậu xuân ca
Quý Dậu xuân hồi phúc trạch đa
Hùng kê thanh chấn địa sinh hoa
Khải môn hỷ kiến nhân gian Phật
Hằng đạo tùy duyên tượng thái hòa.
Tào Mạt và Nguyễn Văn Huyền dịch:
Vui xuân Quý Dậu
Quý Dậu xuân về nhiều phúc trạch
Tiếng gà gáy rộn đất bung hoa
Bước ra gặp Phật nơi trần thế
Thuận đạo cùng vui cảnh thái hòa.
Một số bài Tào Mạt viết trong những chuyến đi thăm lại cảnh cũ người xưa mà ông đã trải qua hai cuộc kháng chiến, trong đó có những bài ông mượn cảnh nói lên những tâm sự riêng của mình. Những bài như thế không nhiều và không thật nổi trội. Chiếm số lượng nhiều nhất là những bài Tào Mạt viết tặng người thân, bạn bè, đồng nghiệp. Tào Mạt thuộc dạng nhà thơ có bản năng nghệ sĩ rất mạnh. Ông bước đi trên đường đời, dù trong giông bão, đạn bom hay trong an lạc, thái hòa, gặp ai mà thấy kính, thấy yêu, thấy thương, thấy cảm thông, để lại một ấn tượng gì đó là ông viết thơ tặng.
Trong phạm vi một bài viết, tôi chỉ xin giới thiệu một số bài cùng bạn đọc.
Bài 1:
Ðiếu Nguyễn Tuân tiên sinh
Nhất sinh phiêu chuyển tự phi bồng
Vạn lý giang hà lãng thượng ông
Tùy bút thành văn văn bất hủ
Viễn du kim hựu nhất nang không
Nguyễn Văn Huyền dịch:
Viếng tiên sinh Nguyễn Tuân
Xê dịch một đời như cỏ bồng
Làm chàng lãng tử khắp non sông
Nên thiên bất hủ văn tùy bút
Ðến chuyến đi này vẫn túi không.
Bài 2:
Tặng Vũ Cao huynh
Thi gia vô dị lão thôn ông
Cố Lưỡng Ðôi sơn hiển thủy chung
Lộ viễn vô hài thiên bộ hiểm
Quản viên nhân tiếu lãm hoa dung
Lê Vũ Hoàng dịch:
Tặng nhà thơ đàn anh Vũ Cao
Nhà thơ chẳng khác lão nhà nông
Còn Núi Ðôi sừng sững đến cùng
Chân đất dù đường xa hiểm trở
Coi vườn hoa ngắm cứ thong dong.
Bài 3:
Tặng Phạm Tiến Duật thi hữu
Tàn đông xuân vị đáo thi gia
Táo lãnh, bình không nội diệc ca
Hốt kiến hủ tường tân lịch ảnh
Biên phòng chiến sĩ thưởng đào hoa
Tào Mạt dịch:
Tặng bạn thơ Phạm Tiến Duật
Ðông tàn, xuân chửa tới nhà thơ
Bếp lạnh, chai không, vợ cũng hờ
Tường lở, chợt xem tờ lịch mới
Hoa đào bên chiến sĩ biên khu.
Một lần đi dạo phố gặp diễn viên chèo Lưu Nga, người quê vùng nông thôn Thạch Thất, từng thủ vai Cô Tấm rất nổi tiếng, nhưng vì hoàn cảnh phải giải nghệ, sống lay lắt tạm bợ nơi hẻm phố Hà thành, Tào Mạt viết:
Lưu Nga
Thạch thôn tài nữ trú Long đô
Tận nhật tân cần sấu tổn vô
Bán thế đa lưu duyên nghiệp trái
Tàn đăng thảo xá Tấm nương cô
Ngô Linh Ngọc dịch:
Lưu Nga
Long thành gái giỏi Thạch thôn
Lam làm khuya sớm mỏi mòn vóc hoa
Nửa đời duyên nghiệp chưa tha
Ðơn côi thân Tấm canh tà đèn chong.
Trong cái nghề văn nghệ, đáng chán nhất là khi ta gặp phải những con người nhạt nhẽo, gặp đồng nghiệp làm văn mà nhạt nhẽo thì càng đáng buồn hơn. Tuy sống gần Tào Mạt không nhiều, nhưng mỗi lần gặp ông, dù thong dong hay vội vã, tôi cũng không cảm thấy cuộc gặp vô vị, nhàm tẻ. Không ít thì nhiều, tôi đều học được ở ông một điều gì đó. Ông luôn cho tôi một cảm nhận: Văn chương, chữ nghĩa là một chốn thiêng, thẳm sâu, minh triết, không bao giờ hợp với những kẻ nông nổi, nhảm nhí, thô bạo.
Thật lạ, tập thơ chữ Hán của Tào Mạt in cách đây đã 16 năm, bây giờ tôi đọc lại vẫn thấy chưa hề nhàm cũ.