Niềm hy vọng chống biến đổi khí hậu
Hiện tại, châu Á đang trở thành nơi chịu ảnh hưởng nhiều nhất từ quá trình BĐKH. Trong đó, khu vực bị ảnh hưởng nặng nề nhất là Nam Á, nơi sinh sống của hơn 1,7 tỷ người và cũng là khu vực nhiều người nghèo nhất hành tinh, theo một nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới (WB). Nghiên cứu cũng chỉ ra sáu quốc gia Nam Á có nhiệt độ trung bình hằng năm tăng đều đặn cùng với sự mất ổn định của lượng mưa.
Thay đổi khí hậu không được kiểm soát sẽ gia tăng các khó khăn về kinh tế, đói nghèo và bệnh tật... Thành phố Karachi (Pakistan) là một “điểm nóng” vì nhiệt độ cao làm giảm năng suất lao động và tác động tiêu cực tới sức khỏe cộng đồng. Trong những khu vực khác như vành đai trung tâm của Ấn Độ, nhiệt độ cao hơn và sự bất ổn lượng mưa đã gây thiệt hại mùa màng, gia tăng áp lực đối với nông dân. Ngoài ra, nghiên cứu cũng chỉ ra rằng một số nơi nhiệt độ đang trở nên nóng hơn trong thời gian ngắn hơn. Từ năm 1950 đến năm 2010, phía tây Afghanistan và tây nam Pakistan nhiệt độ trung bình hằng năm tăng khoảng từ 1 - 3 độ C. Còn đối với một số nước có khí hậu lạnh trong khu vực châu Á dù không bị ảnh hưởng mạnh bởi nhiệt độ cao, nhưng BĐKH sẽ khiến thời tiết trở nên khắc nghiệt hơn.
Mức độ nghiêm trọng của quá trình BĐKH sẽ tùy thuộc vào các biện pháp trong tương lai để giảm phát thải khí nhà kính. Nhiệt độ trung bình hằng năm ở Nam Á được dự báo sẽ tăng 2,2 độ C vào năm 2050. Tuy nhiên, nhiệt độ được dự báo sẽ chỉ tăng 1,6 độ C nếu các quốc gia thực hiện thành công việc giảm lượng khí thải toàn cầu. Các nước công nghiệp phát triển tự nguyện cam kết đóng góp 100 tỷ USD mỗi năm, từ 2009 tới năm 2020. Sau Hiệp ước Paris về chống BĐKH năm 2015, LHQ đã thành lập Quỹ Khí hậu xanh, trích hơn 10 tỷ USD để hỗ trợ các nước nghèo thực hiện quá trình này.
Quỹ Khí hậu xanh đã thực hiện một số dự án đáng chú ý, như phát triển hệ thống tưới tiêu và nước ngầm ở phía đông bắc Ấn Độ, nơi BĐKH khiến lượng mưa không ổn định, ảnh hưởng nghiêm trọng tới nông nghiệp, hoặc xây dựng nhà máy thủy điện ở quần đảo Solomon, phía nam Thái Bình Dương để loại bỏ các máy phát điện bằng diesel hay nỗ lực phục hồi và bảo vệ các vùng đất ngập nước của Uganda...
![]() |
Người dân ven biển Việt Nam cần thêm sự hỗ trợ từ Quỹ Khí hậu xanh. Ảnh: GETTY IMAGES
Các cam kết “giậm chân tại chỗ”
Cho tới nay, số tiền cam kết cho Quỹ Khí hậu xanh vẫn chỉ là 3,5 tỷ USD, một con số đáng thất vọng nếu so với cam kết của các quốc gia phát triển. “Quỹ hy vọng đang trở thành một quỹ vô vọng”, đó là ý kiến của bà Meena Raman, cố vấn pháp lý cho The Third World Network (một nhóm vận động vì môi trường ở Malaysia) và là một cựu thành viên không chính thức trong hội đồng của Ủy ban Khí hậu xanh. Trong thông báo quyết định rút khỏi Hiệp ước Paris, Tổng thống Mỹ Donald Trump cho biết, Mỹ sẽ ngừng đóng góp cho Quỹ Khí hậu xanh với lý do quốc gia này không muốn tiêu tốn hàng tỷ USD trong tương lai.
Sau khi Mỹ rút khỏi Hiệp ước Paris, bà Raman vẫn hy vọng các quốc gia phát triển khác tiếp tục khẳng định cam kết của mình bằng cách đóng góp nhiều hơn cho quỹ. Tuy nhiên, các nước này chưa đưa ra bất kỳ động thái cụ thể nào. “Chúng tôi rất ngỡ ngàng trước lập trường của Mỹ, nhưng đó không phải là quốc gia duy nhất làm vậy. Hiện tại tất cả các nước phát triển có quan hệ đối tác với Mỹ đều chưa thực hiện bất kỳ hành động ủng hộ nào về tài chính”, bà Raman lo ngại. Trong khi đó, hội nghị khí hậu vừa qua ở Thái-lan vẫn chưa thể giải quyết cụ thể vấn đề tài chính cho các dự án giảm thiểu BĐKH. Quỹ Khí hậu xanh đã không thể phê duyệt các dự án mới như thường lệ. Ông Brandon Wu, Giám đốc chiến lược tại Action Aid USA, một nhóm vận động vì môi trường của Mỹ, nói: “Việc thiếu ngân sách thật sự đã làm suy yếu niềm tin vào các cuộc đàm phán tiếp theo”.
Tình trạng thiếu hụt tài chính của quỹ và bất đồng quan điểm đã làm giảm kỳ vọng với các cuộc đàm phán sắp tới tại Ba Lan. Nhiều học giả cũng chỉ ra rằng, các nước phát triển đóng góp cho quỹ một cách khiên cưỡng, bởi họ quan niệm mình ít trách nhiệm trong việc gây ra tình trạng BĐKH, dù chính họ dễ bị tổn thương trước những thay đổi tiêu cực này. Ông Thitinan Pongsudhirak, nhà khoa học chính trị tại Đại học Chulalongkorn (Thái-lan) cho rằng: “Chắc chắn các nước phát triển phải có vai trò lớn hơn trong Quỹ Khí hậu xanh, vì các nước này đã được hưởng lợi từ sự giàu có tích lũy qua nhiều thập kỷ khi các vấn đề khí hậu chưa được chú trọng”.
Không chỉ thiếu hụt tài chính, bản thân việc quản lý và sử dụng quỹ cũng có nhiều ước tính khác nhau về số tiền chi cho công tác chống BĐKH ở các nền kinh tế nghèo. Đây là sự khác biệt dẫn tới sự thiếu đồng thuận trong kế hoạch hoạt động. Nhiều quan chức quản lý Quỹ Khí hậu xanh đã không đồng tình với việc lượng lớn tiền quỹ được phân phối thông qua các ngân hàng phát triển lớn, hoặc những doanh nghiệp tư nhân do các tập đoàn toàn cầu nắm giữ. Họ cho rằng tiền viện trợ cần được chuyển trực tiếp cho chính phủ các nước đang phát triển, hoặc các cộng đồng có nguy cơ bị ảnh hưởng trực tiếp từ BĐKH. Nhưng ngay cả phương án này vẫn tồn tại khả năng người dân ở những vùng nghèo không được hưởng lợi từ Quỹ Khí hậu xanh. Lý do là chính phủ nhiều nước không thể, hay thậm chí không muốn chi tiêu nhiều hơn cho các chương trình giảm thiểu hoặc thích ứng BĐKH.
Mặc dù còn nhiều khó khăn, nhưng không thể phủ nhận thành tựu của Quỹ Khí hậu xanh tại khu vực Đông - Nam Á. Nhiều chương trình sử dụng nguồn quỹ đã đem lại hiệu quả đáng kể, tạo động lực và niềm tin cho các quốc gia tiếp tục hiện thực hóa quyết tâm chống BĐKH. Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) cho biết, theo một báo cáo năm 2017, Đông - Nam Á là nơi bị ảnh hưởng nhiều nhất vì sự tăng nhiệt độ trong khu vực. Trong số 74 dự án của Quỹ Khí hậu xanh đã được phê duyệt trị giá 3,5 tỷ USD, có ba dự án ở Đông - Nam Á với tổng số vốn gần 156 triệu USD. Bà Lidy Nacpil, điều phối viên Phong trào về Công nợ & Phát triển châu Á, một liên minh khu vực của các tổ chức phi lợi nhuận và các nhóm cộng đồng, cho biết nguồn lực tài chính dành cho các dự án chống BĐKH là rất quan trọng ở Đông - Nam Á. Nguyên nhân một phần vì nhiều thành phố Đông - Nam Á nằm tại các vùng ven biển dễ bị ảnh hưởng bởi tình trạng nước biển dâng. Ngoài ra, số lượng nhà máy nhiệt điện dùng than trong khu vực đang ngày càng tăng. Để đối phó với tình hình này, các chính phủ nên thay đổi chính sách quốc gia, khuyến khích các khoản đầu tư vào năng lượng tái tạo.
Bà Jenty Kirsch Wood, chuyên gia về khí hậu trong Chương trình Phát triển LHQ (UNDP), cũng lên tiếng ủng hộ vai trò của Quỹ Khí hậu xanh bằng cách chỉ ra những lợi ích mà nó mang lại tại Việt Nam. Chỉ nhờ một phần khoản tài trợ 30 triệu USD từ chương trình này, nhiều người dân ở vùng ven biển đã có những ngôi nhà kiên cố chống bão. “Quỹ Khí hậu xanh đã hồi sinh hy vọng có thể đạt được mục tiêu của Hiệp ước Paris, từ đó thúc đẩy cuộc cách mạng năng lượng xanh và giúp người dân thích nghi BĐKH”, bà Kirsch-Wood nói.