Kỷ niệm 70 năm Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (7/5/1954-7/5/2024)

Tìm lại dấu tích con đường huyền thoại *

Lịch sử, cho dù đã được nhắc nhớ, được nghiên cứu, tìm hiểu suốt mấy chục năm qua, vẫn luôn có quá nhiều câu chuyện cần phải được kể.
Những tấm biển di tích lưu dấu về một thời... chưa xa lắm.
Những tấm biển di tích lưu dấu về một thời... chưa xa lắm.

(tiếp theo và hết)

Kỳ 3: NHỮNG THƯỚC PHIM ĐANG MỜ DẦN...

Trên hành trình tìm lại dấu tích của con đường tiếp vận "có một không hai" của lịch sử dân tộc, chúng tôi chợt nhận ra một thực tế nghẹn lòng: Khi mà tầm vóc vĩ đại của chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ càng trở nên sừng sững trong nhận thức của hậu thế, khi mà sự tôn vinh, tri ân ngày càng được ghi khắc sâu đậm hơn bởi chính những nhận thức về sự hy sinh, sức mạnh và vinh quang của dân tộc, thì, véc-tơ nghiệt ngã của thời gian dường như lại đang tăng tốc, phủ lên ký ức những nhân chứng sống của lịch sử, những chủ nhân đích thực đã làm nên kỳ tích chấn động nhân loại ấy, bức màn sương mờ ảo, khiến cho, có những câu chuyện sẽ không còn cơ hội được kể…

Với Tây Bắc, đến và ở lại

Trong những cựu thanh niên xung phong phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ mà chúng tôi có cơ hội tìm gặp, hành trình sống và cống hiến cho Tây Bắc của họ còn tiếp tục nối dài sau ngày 7/5/1954 lịch sử, với rất nhiều những hy sinh thầm lặng.

Như cụ Lê Văn Du (sinh năm 1937, thôn Đạt Tiến II, xã Tế Nông, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa) là thanh niên xung phong ở đội 34. Trong cuộc trò chuyện ngắn với chúng tôi cụ kể: Hết chiến dịch Điện Biên Phủ, chúng tôi lại đi làm con đường từ Lai Châu đi Ma Lù Thàng, để chuyển hàng viện trợ từ Trung Quốc sang. Khi đó Hà Nội chưa được giải phóng đâu. Tây Bắc ngày đó "rừng thiêng nước độc", thiếu thốn, sốt rét đã quật ngã nhiều đồng đội. Họ yên nghỉ tại Nghĩa trang liệt sĩ Thanh niên xung phong ở Chăn Nưa (nghĩa trang liệt sĩ thanh niên xung phong thời chống Pháp duy nhất trên cả nước) nằm cạnh con đường đó - giọng ông chùng xuống. Đến năm 1957, có chủ trương đưa hai vạn thanh niên xung phong về các địa phương phục vụ phát triển kinh tế, nên tôi về quê. Đơn vị tôi cũng về hết.

Còn có rất nhiều thanh niên xung phong đã ở lại với Tây Bắc, như cụ Trần Văn Túy, sinh năm 1931, hiện ở xã Nà Mường (huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La). Theo trí nhớ đã có chút trùng lắp, được nhắc gợi bởi người con trai trưởng cũng theo chân bố rời quê hương Thái Bình lên với Tây Bắc từ năm 1969, cụ Trần Văn Túy đã ở lại Mộc Châu theo sự phân công của tổ chức ngay sau chiến dịch Điện Biên Phủ. Đầu năm 1955, cụ về quê, cưới người con gái đã ước hẹn từ trước khi đi chiến dịch Điện Biên Phủ, rồi đưa vợ cùng lên công tác ở Sơn La. Khó khăn, vất vả, nên sau khi sinh người con trai đầu, hai vợ chồng cụ phải gửi con về quê Thái Bình nhờ người em trai nuôi giúp, đến năm 1969 mới đón lên ở cùng bố mẹ. Cụ từng tham gia phục vụ ngành thương nghiệp, chuyên phụ trách việc vận chuyển hàng hóa bằng đường sông nối Sơn La với miền xuôi, rồi chuyển sang công tác trong ngành lâm nghiệp, làm đến Phó Giám đốc Lâm trường 3 rồi nghỉ hưu theo chế độ, đối với cụ và cả đại gia đình có 7 người con gồm 3 trai, 4 gái ấy, Sơn La đã trở thành quê hương thứ hai của họ. Là những người nhận nhiệm vụ khai mở con đường từ Mộc Châu vào Nà Mường năm xưa, giờ ngôi nhà của cụ Túy vẫn nằm ngay cạnh con đường ấy, nhưng con đường thì đã được trải nhựa to, rộng. Ký ức về những tháng ngày gian khó, hiểm nguy mấy chục năm về trước ấy, giờ vẫn được nhắc nhớ, thỉnh thoảng, trong những câu chuyện kể. Bao gian nan, vất vả, thường được gói gọn lại trong… vài cái lắc đầu. Ở nơi chốn bình yên, ít xáo trộn như Nà Mường này, những nét vẽ của lịch sử cũng đang mờ dần, lặng lẽ…

Những dấu tích chỉ còn… trong sử sách

Trong nhiều cuộc trò chuyện với các nhân chứng lịch sử, và trong nhiều tài liệu nghiên cứu về Điện Biên Phủ của các sử gia, nhân chứng nước ngoài, có một điều được đặc biệt nhắc đến: Những con đường ra trận rộn rã tiếng hò tiếng hát, những tuổi thanh xuân phơi phới và hạnh phúc, khi tìm được lý tưởng sống và được sống, cống hiến cho niềm tin, lý tưởng của mình.

Khi tìm đọc các tài liệu về con đường tiếp vận chiến lược từ hậu phương Thanh-Nghệ lên Điện Biên Phủ năm xưa, chúng tôi xúc động đọc lại lời khen ngợi của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi nói về những đóng góp sức người, sức của cho chiến dịch Điện Biên Phủ, trong dịp về thăm tỉnh Thanh Hóa lần thứ hai, năm 1957: "Bây giờ tiếng Việt Nam đến đâu, tiếng Điện Biên Phủ đến đó; tiếng Điện Biên Phủ đến đâu, đồng bào Thanh Hóa cũng có một phần vinh dự đến đó". Theo thống kê, tỉnh Thanh Hóa đã huy động 30% số người trong độ tuổi lao động tham gia dân công hỏa tuyến, với tổng số hơn 200 nghìn lượt người, 27 triệu ngày công; cùng với hàng vạn xe đạp thồ, thuyền ván, xe bò, ngựa thồ… vận chuyển 50% khối lượng lương thực phục vụ chiến dịch. Tính chung các đợt huy động, cả khi dân đang trong thời kỳ giáp hạt, Thanh Hóa đã cung cấp 4.500 tấn gạo, 350 tấn thực phẩm, 2.000 con lợn, hàng trăm con trâu bò và hàng chục tấn rau, đậu, lạc, vừng…

Nếu có dịp đọc những tài liệu so sánh về nhân lực, vật lực của hai phía tham chiến trong cuộc đọ sức lịch sử ở lòng chảo Điện Biên Phủ năm ấy, sẽ thấy những con số thống kê đó trở nên hết sức sống động, đưa tới sự hình dung về những miền quê nghèo xơ xác mà lại luôn rộn rã tiếng cười, những con người ăn đói, mặc rét nhưng đôi mắt luôn ngời sáng niềm tin, sẵn sàng thắt chặt hơn nữa chiếc dây lưng buộc bụng để dành thêm phần lương thực ít ỏi còn lại ủng hộ cho bộ đội.

Những thế hệ sau có thể sẽ không hiểu hết được, không cảm hết được những xúc cảm hết sức chân thành đó, khi không có được cơ hội trực tiếp lắng nghe và nhìn vào những đôi mắt, khuôn mặt bừng sáng của các chứng nhân lịch sử, những con người đã kiên cường sống vượt qua hai thế kỷ, khi họ nhắc tới mấy tiếng Điện Biên Phủ, như chúng tôi, trong những ngày tháng rất đặc biệt này.

Sự khắc nghiệt của thời gian còn khiến cho nhiều dấu tích, nhiều địa danh gắn với những tháng ngày hào hùng mà cũng đầy bi tráng đó, đã phai nhòa. Những Cành Nàng (Bá Thước), Hồi Xuân (Quan Hóa), Cửa Hà (Cẩm Thủy) của tỉnh Thanh Hóa, rồi Suối Rút (Mai Châu- Hòa Bình)... những nơi chốn từng sôi động, rầm rập bước chân của cả một thế hệ người Việt ưu tú, hừng hực tinh thần yêu nước, cống hiến vượt trên cả sức mình cho cuộc chiến đấu giành lại quyền làm chủ đất đai Tổ quốc mình, giờ chỉ còn lưu dấu bởi những… tấm biển di tích.

Ngay ở các di tích đã được xếp hạng cấp quốc gia, sự khó hiểu trong ứng xử của cơ quan chức năng cũng khiến cho những nhân chứng lịch sử và nhiều người dân quan tâm tới di tích cảm thấy băn khoăn, nặng lòng. Đơn cử như tấm bia di tích Trạm hậu cần hỏa tuyến Nà Tấu đang được đặt trên địa bàn xã Nà Nhạn (thành phố Điện Biên Phủ). Trên nội dung tấm bia còn ghi rõ: Trạm hậu cần hỏa tuyến Nà Tấu-KM 62, song, sau hai lần di chuyển địa điểm, hiện tấm bia lịch sử này được đặt cách vị trí KM 62: 1 km. Chỉ những người ít nhiều có kiến thức về địa điểm này mới có thể tìm được đến nơi, và muốn vào gần tấm bia thì phải biết… nhảy, do… có một con mương nhỏ ngăn cách quốc lộ với con đường bê-tông dẫn vào tấm bia. Lịch sử luôn cần sự chính xác đến từng chi tiết, vậy nhưng, việc điều chỉnh, thay đổi những thành tố của di tích, mà câu chuyện tấm bia trên đây là một thí dụ, đang khiến cho những ghi chép phần nào trở nên khác biệt so với thực tế.

Con đường dẫn vào bia di tích Trạm hậu cần hỏa tuyến Nà Tấu- KM 62.

Con đường dẫn vào bia di tích Trạm hậu cần hỏa tuyến Nà Tấu- KM

62.

★★★

Câu cuối trong ca khúc Tình ca Tây Bắc của nhạc sĩ Bùi Đức Hạnh đã được nhiều giọng hát tên tuổi của đất nước ngân vang: Đất nước hòa bình hạnh phúc ta như mùa xuân. Trong các cuộc trò chuyện với các nhân chứng lịch sử từng tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử năm xưa, chúng tôi đều được nghe họ nói rằng, đất nước hòa bình như ngày nay là sung sướng quá rồi. Dù còn khó khăn, nhưng hòa bình vẫn là điều may mắn, hạnh phúc nhất. Khi đất nước lâm nguy, mỗi người dân mang dòng máu Việt đều sẵn sàng tận hiến cho Tổ quốc, nhưng thẳm sâu trong mỗi trái tim và ẩn chứa ngay trong sự hy sinh không hề toan tính ấy, là khát khao cháy bỏng về một nền độc lập, tự do, hòa bình vĩnh viễn cho non sông gấm vóc này, cho chính họ và những thế hệ cháu con, cho chính hôm nay!

Có thể, chính họ tự nhận thấy mình may mắn hơn những đồng chí, đồng đội đã ngã xuống trên chiến hào, trên những chặng đường hành quân đầy gian lao, hiểm nguy của cuộc kháng chiến. Song, chính họ đang mang tới sự may mắn cho hậu thế, khi vẫn lưu giữ được, và kể lại, để những thế hệ người Việt hôm nay có thể cảm nhận được phần nào niềm tự hào về nguồn sức mạnh vô song của tình yêu đất nước, trong huyết quản mỗi con người Việt Nam, thuở ấy.

Kỳ 1: Những "cột mốc" khí thế và kiêu hãnh

Kỳ 2: Những "bất ngờ lớn" của lịch sử

(*) Xem Nhân Dân cuối tuần từ số 17, xuất bản ngày 28/4/2024.

Có thể bạn quan tâm

Chương trình văn nghệ Kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh tại Quảng trường Ba Đình sáng 2/9/2025.

Vinh quang mãi mãi thuộc về Nhân dân!

Đó là câu cuối trong bài diễn văn súc tích, ý nghĩa của Tổng Bí thư Tô Lâm trên Quảng trường Ba Đình lịch sử tại Lễ kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9 vừa qua. Cũng tại nơi đây, lời Quốc ca vang lên cùng những hình ảnh cờ hoa, những gương mặt ngời lên rạng rỡ của vạn người sẽ mãi mãi ghi vào tâm khảm nhân dân.

Nhà báo Hồng Châu, tức Thép Mới (bên phải) và nhà báo Cao Kim, tức Kim Toàn - hai nhà báo của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam từng bí mật hoạt động báo chí tại Sài Gòn - Gia Định trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968.

Nhà báo Kim Toàn - Người truyền cảm hứng

Câu chuyện bắt đầu từ giữa năm 2024, khi Bảo tàng Báo chí Việt Nam “nhận lệnh” của lãnh đạo Hội Nhà báo Việt Nam, chính thức khởi động việc xây dựng kế hoạch hoạt động cho năm 2025 - một năm đặc biệt vì có rất nhiều ngày lễ lớn trọng đại của đất nước.

Cổng đình Phú Gia.

Làng Chăm nghìn tuổi giữa đất Hà thành

Chuyện mà tôi đang kể là về vùng đất Phú Gia, một ngôi làng đặc biệt. Làng nằm cách trung tâm Hà Nội hơn mười cây số về phía tây bắc. Phú Gia xưa tên Nôm là làng Gạ, tục gọi làng Già rồi Bà Già hương; đến thời Minh Mạng là tổng Phú Gia, huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức, trấn Sơn Tây.

Trung tâm huyện Đạ Huoai, nơi có nhiều người dân Huế lập cư.

Một vùng quê Huế trên đất nam Tây Nguyên

Trong rất nhiều chương trình di dân sau ngày thống nhất đất nước, có câu chuyện về một vùng quê mới của người xứ Huế, được lập ra từ gần nửa thế kỷ trước. Vùng quê ấy xưa gọi là khu kinh tế mới Hương Lâm, nay thuộc xã Đạ Lây, huyện Đạ Huoai-vùng đất phía nam Lâm Đồng…

Những nhát búa phá đá mở đường, xuyên núi Xéo Sảng Lủng năm ấy. (Ảnh NVCC)

Tạc vào đá con đường Hạnh Phúc

Mùa xuân năm 1961, trong bài thơ mừng năm mới gửi đồng bào, đồng chí, chiến sĩ cả nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Mừng Việt Nam, mừng thế giới!/ Đường lên hạnh phúc rộng thênh thênh”. Đó là mùa xuân đầu tiên chúng ta thực hiện Nghị quyết Đại hội III (tháng 9/1960) của Đảng.
Lễ Thượng cờ tại Cột cờ A Pa Chải. (Ảnh Xuân Tư)

Vẹn nguyên tinh thần, ý chí Điện Biên

Tháng 5, từng con đường, ngõ phố trong thành phố Điện Biên Phủ lại kiêu hãnh thắp lên màu đỏ chói ngời của Quốc kỳ, của những biểu ngữ như hối giục người muôn phương tìm về nơi đây. Về với mảnh đất Điện Biên, về để thăm chiến trường xưa và cả những công trình mới, về để mỗi người con nước Việt cảm nhận sự chuyển mình mạnh mẽ của thành phố trẻ…
Trong ảnh: Nhân dân miền nam tham gia đấu tranh với Mỹ-ngụy trong Phong trào Đồng khởi. (Ảnh Tư liệu)

Kỳ 3: Những bài học sâu sắc, còn nguyên giá trị thời sự và thời đại

(Tiếp theo và hết)

“Đã nửa thế kỷ trôi qua, nhưng những bài học mà hoạt động binh vận trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước để lại vẫn còn nguyên giá trị thời sự, sâu sắc và cần được tiếp tục nghiên cứu, vận dụng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay” - PGS, TS Hồ Sơn Đài, giảng viên cao cấp, khoa Lịch sử, Trường đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, khẳng định như vậy trong cuộc trao đổi với chúng tôi về những điều cần tiếp tục thực hiện để có thể xác định chính xác tầm vóc, ý nghĩa lớn lao của “mũi tiến công chiến lược” - binh vận.

Hai cán bộ của Ban Binh vận đặc khu Sài Gòn- Gia Định: Ông Lê Quang Đức (người ngồi) và ông Cao Đức Trường (người đứng).

Kỳ 2: Những con đường “không giống ai” của tình yêu đất nước

Khác với hầu hết các lực lượng cách mạng cùng tham gia chiến đấu giành lại hoà bình, độc lập cho dân tộc, những cán bộ làm công tác binh vận phải nhận về mình rất nhiều nguy hiểm, thiệt thòi, khi luôn phải sống “hai mặt”, che giấu thân phận thật sự của mình, trong khi tìm mọi cách để cảm hoá, vận động các đối tượng binh sĩ ngụy quyền trở về với chính nghĩa, với dân tộc…
Sau khi ném bom dinh Độc Lập, phi công Nguyễn Thành Trung đã lái máy bay F5E hạ cánh an toàn xuống sân bay Phước Long. Ảnh tư liệu

Mặt trận “không đánh mà thắng"

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: Đánh mà thắng địch là giỏi, không đánh mà thắng càng giỏi hơn. Không đánh mà thắng là nhờ địch vận. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, truyền thống "tâm công" (đánh vào lòng người) của các bậc tiền nhân đã được Đảng Lao động Việt Nam phát triển lên một tầm cao mới và được quân và dân ta sử dụng như một thứ vũ khí sắc bén để tạo nên sức mạnh tổng hợp, áp đảo, đập tan mọi sự kháng cự của kẻ địch.

Ông Kuznetsov (bìa phải) và tác giả.

Từ Bí thư Tỉnh đoàn Komsomol đến ông chủ công ty cá tầm Thung Lũng Nắng

Ông Lê Khắc Nghị, một cựu cán bộ ngoại giao đã kết nối tôi với Gennady Kuznetsov, người bạn Nga có tính cách thâm trầm, giản dị và dễ mến. Thế rồi, chúng tôi đã có cuộc thăm viếng và trao đổi cởi mở. Câu chuyện mà tôi muốn kể dưới đây là một phần nhỏ trong hành trình cuộc đời của người đàn ông đến từ nước Nga xa xôi. Bởi biến động chính trị, Liên bang Xô Viết sụp đổ đã tạo nên bước ngoặt cuộc đời của Kuznetsov. Từ một Bí thư Tỉnh đoàn Thanh niên cộng sản Lênin (Komsomol), một cán bộ của Tỉnh ủy Magadan, anh trở thành ông chủ của Công ty cá tầm Thung Lũng Nắng giữa vùng rừng núi thuộc xã Đạ Sar (Lạc Dương, Lâm Đồng). Câu chuyện của chúng tôi không bắt đầu từ những con cá hay những lô sản phẩm trứng cá tầm cao cấp mà về một miền ký ức xưa cũ, những hoài niệm rừng rực, miên man trong tâm hồn người đàn ông Nga sinh năm 1957. Kuznetsov đã có một tuổi trẻ đầy nhiệt huyết, sôi nổi và thật giàu ý nghĩa. Với giọng trầm buồn, anh nói với tôi, đó là quãng thời gian đẹp nhất, đáng nhớ nhất trong cuộc đời mình.
Cựu chiến binh Nguyễn Đình Quốc kể về những năm tháng gian lao nhưng vô cùng anh dũng. Ảnh: LƯU XA

Những người kể chuyện hòa bình

Không chỉ kiên cường trong chiến đấu, nhóm cựu chiến binh bị địch bắt tù đày, trở về đời thường vẫn mang tinh thần bất khuất của người lính, không ngại gian khó. Các ông dày công xây dựng Bảo tàng Chiến sĩ cách mạng bị địch bắt tù đày, biến nơi đây thành “địa chỉ đỏ” tri ân các đồng đội đã ngã xuống, đồng thời lan tỏa lòng yêu nước và giá trị của hòa bình cho các thế hệ sau.
Lớp học mầm non ở buôn Ka Ming. (Ảnh: Uông Thái Biểu)

Đất giàu, đất học Ka Ming

Ngày trước buôn Ka Ming thuộc xã Gung Ré, nay là một trong những khu phố của thị trấn Di Linh (huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng). Với 100% dân số là đồng bào dân tộc Cơ Ho thuộc nhánh Srê, buôn làng này thật sự là một vùng đất lành, đất giàu và đặc biệt là đất học nổi tiếng trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số Tây Nguyên.
Lễ hội kỷ niệm 236 năm Chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa (1789 - 2025). Ảnh: Thành Đạt

Rộn rã mọi miền Xuân

Âm hưởng mùa xuân đang lan tỏa và ngân vang, trên mênh mang khắp ba miền Tổ quốc nghìn đời tươi đẹp. Mùa lễ hội, giữa trời đất giao hòa, căng trào nhựa sống, lòng người càng thêm phơi phới, rạng rỡ những góc nhìn...
Những bông hoa muối nhen lên niềm hy vọng về một mùa bội thu.

Thương lắm muối ơi!

Khi gió chướng về cũng là lúc Bạc Liêu vào vụ muối mới. Nhìn mấy diêm dân lực điền hì hục đẩy những chiếc hủ lô to đùng làm nhẵn mặt sân chuẩn bị rước nước vào đồng ai cũng mừng vui khó tả. Nghề muối cực lắm, nhưng đã làm nghề này rồi thì khó mà dứt ra cho được khi tình người, tình muối đã hòa quyện vào nhau.
Các chiến sĩ lữ đoàn 162 gói bánh chưng chuẩn bị đón Tết.

Đón xuân trên chiến hạm

Đón giao thừa trên chiến hạm không rượu, bia thuốc lá, hồi còi tàu thay cho pháo, nhưng lại có những điều đặc biệt khác mà ít người có thể hình dung ra được…
Ngọn hải đăng trên đảo. Ảnh: TIẾN DŨNG

Hành trình đến với “Đuôi rồng trắng”

Mỗi lần ra biển trong tôi không khỏi hồi hộp, rạo rực đợi chờ… Cái giây phút bước lên boong tàu đánh thức trong ta một cảm giác thật khác biệt, cảm giác của một người bước ra khỏi mặt đất đến với thế giới của sóng, gió và nước mênh mông. Tháng 4/1988, tôi ra Trường Sa háo hức trong tinh thần bảo vệ biển đảo quê hương trên mặt trận truyền thông với nhiệm vụ của một phóng viên ảnh. Lần này là đến với “Đuôi rồng trắng” - Bạch Long Vĩ trong thời bình yên rộng mở.
Ông Quang Văn Thu (thứ bảy, từ trái sang) và người dân phối hợp tuần tra đường biên, cột mốc cùng chiến sĩ Đồn Biên phòng Thông Thụ (huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An). Ảnh: NGUYỄN ĐẠO

"Cột mốc sống" nơi biên cương xanh thẳm

Nước ta có 4.510 km đường biên giới đất liền trải dài từ bắc tới nam. Chủ quyền quốc gia được xác lập, gìn giữ từ những cột mốc đánh dấu tọa độ và từ chính những bước chân lặng thầm bền bỉ không kể ngày - đêm, mưa - nắng của những người lính biên phòng cùng hàng hàng lớp lớp người dân tình nguyện trở thành những "cột mốc sống".
Đoàn thực hiện nghi lễ chào cờ tại đảo Cồn Cỏ. Nguồn: ĐI ĐỂ HIỂU

Hành trình của lòng tự hào và biết ơn

Bùi Thiên Phú, cậu bé 10 tuổi ở thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh vừa có chuyến đi đầu tiên cùng ông ngoại về miền đất lửa Quảng Trị, nơi hơn 50 năm trước ông của cậu từng chiến đấu. Đứng trên cầu Bến Tắt bắc qua vĩ tuyến 17 lịch sử - nơi từng là ranh giới tạm thời chia cắt đất nước, Phú nhìn theo hướng tay ông ngoại chỉ và nghe ông kể: "Ngày ấy, đơn vị ông đóng quân ngay phía bên trái cầu, làm nhiệm vụ bảo đảm thông tin liên lạc thông suốt"...
Thị trấn Thanh Chương hôm nay. Ảnh: Lê Anh Dũng

Thanh Chương - Miền văn hùng võ lược

Nếu kể đến một vùng quê địa linh nhân kiệt, kiên cường cách mạng và hiếu học, không thể không nói đến Xứ Nghệ. Nói đến Xứ Nghệ, có lẽ không thể không nói đến Thanh Chương.
Kênh Nhiêu Lộc-Thị Nghè - một dự án hồi sinh dòng chảy hiệu quả tại Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh: QUỲNH TRẦN

Kỳ 3: Từ phương thức, nguồn lực đến mô hình

Nhiều văn bản pháp luật quan trọng xác định khung khổ pháp lý cũng như định chế bảo vệ tài nguyên nước nói chung và các dòng sông nói riêng đã được ban hành trong những năm gần đây. Dẫu vậy, để có thể tạo nên những tác động thật sự tích cực, hồi sinh những dòng sông đang "chết mòn", theo nhiều chuyên gia, cần nâng cao trách nhiệm quản lý của các cơ quan chức năng, đồng thời tập trung xây dựng các mô hình cộng đồng bảo vệ sông ngòi.
Thế hệ hôm nay luôn ghi nhớ công lao các anh hùng liệt sĩ.

Giá trị của hòa bình, độc lập, thống nhất

Để giành được độc lập dân tộc, giữ trọn vẹn bờ cõi Tổ quốc, hàng triệu người con ưu tú của đất nước đã dâng hiến tuổi xuân, sẵn sàng hy sinh bản thân mình. Hàng nghìn nghĩa trang liệt sĩ, hàng trăm công trình tượng đài, đài tưởng niệm vẫn đang nhắc nhở chúng ta, những người được sống, làm việc và học tập trong hòa bình: Là công dân của một đất nước độc lập, tự do, mỗi chúng ta không bao giờ được lãng quên sự hy sinh ấy. Hòa bình, độc lập và thống nhất là vô giá!
Nạo vét, khơi thông dòng chảy sông Lừ (Hà Nội). Ảnh: HẢI MIÊN

Kỳ 2: "Cắt ngọn" hay "cải tạo gốc"?

Mặc dù số liệu ghi nhận các trường hợp xả thải sai quy định bị phát hiện, mức độ xử phạt vi phạm ngày càng tăng trong những năm gần đây, nhưng tình trạng ô nhiễm các dòng sông vẫn không được cải thiện đáng kể. Cùng với nỗ lực xử lý "phần ngọn", đã có những mô hình cải tạo "từ gốc" được triển khai.
Sông Cầu đoạn chảy qua Bắc Ninh phải tiếp nhận nhiều nguồn nước thải chưa được xử lý từ các làng nghề. Ảnh: VĂN CHƯƠNG

Cứu sông ngòi ô nhiễm - cách nào?

Sông ngòi bị ô nhiễm nặng nề là thực trạng nhức nhối diễn ra từ nhiều năm qua trên cả nước, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống người dân. Dù đã có nhiều dự án cải tạo, cải thiện nguồn nước được triển khai, song, hầu hết các dự án đều chưa thật sự phát huy hiệu quả. Cách nào để các dòng chảy thật sự là nguồn sống trong lành cho môi trường và con người? Đó vẫn đang là câu hỏi lớn treo lơ lửng...
Không gian hồ sinh thái Na Hang mang một mầu xanh huyền bí.

Vùng thẫm xanh tuyệt sắc

Đặt chân đến bến tàu lòng hồ sinh thái Na Hang (Tuyên Quang), choán ngợp trong tôi là cảm giác yên bình giữa một vùng trong xanh, thấm đến cả năm giác quan. Nơi đây, mỗi người được thảnh thơi thả mình theo tiếng sóng nước, tiếng gió vi vu quyện hòa những âm thanh kỳ diệu của thiên nhiên. Người Na Hang, Lâm Bình đã dựa vào những vẻ đẹp thiên nhiên ban tặng để làm du lịch, gìn giữ văn hóa và từng bước nâng cao đời sống tinh thần của mình.
Lễ đài Ba Đình đầu tiên bằng gỗ ván do KTS Nguyễn Văn Ninh thiết kế. Nguồn: Gia đình Kiến trúc sư Nguyễn Văn Ninh cung cấp.

Kỳ 2: “BÁC Ở THẾ NÀY LÀ QUÁ SANG TRỌNG” (Tiếp theo và hết)

Được sống những khoảnh khắc bên vị lãnh tụ kính yêu của toàn dân tộc, được thiết kế, xây dựng nơi ở và làm việc của Bác là những khoảnh khắc vàng của người kiến trúc sư mà không phải ai cũng vinh dự có được. Nhân cách và trí tuệ vĩ đại, lòng độ lượng, bao dung, nhân hậu, khiêm tốn và giản dị của Người mãi mãi tỏa sáng trong tâm hồn của Nguyễn Văn Ninh; luôn thức dậy trong lòng vị kiến trúc sư niềm khao khát sáng tạo và cống hiến cho dân, cho nước…

Bác Hồ chụp ảnh lưu niệm cùng nhóm thiết kế và thi công nhà sàn của Người. Nguồn: Gia đình cung cấp

Kỳ 1: "Chú lo cho bác một ngôi nhà sàn truyền thống…"

Người Việt Nam nào cũng từng lưu vào trái tim mình hình ảnh ngôi Nhà sàn trong Khu Di tích quốc gia đặc biệt Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch. Ngôi nhà sàn-nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sống và làm việc trong hơn một thập niên cho đến ngày Người mãi mãi về cõi vĩnh hằng đã trở thành một trong những biểu tượng thể hiện cốt cách thanh tao, cao quý của vị Cha già dân tộc. Người thiết kế và chỉ huy thi công nhà sàn là kiến trúc sư Nguyễn Văn Ninh, nhân vật trong câu chuyện mà tôi đang kể…
Lắng nghe những hồi ức của cụ Trần Xuất Chúng.

Tìm lại dấu tích con đường huyền thoại

Tròn 70 năm trước, một con đường tiếp vận chiến lược với những điều kiện "không tưởng" đã được những bộ óc thiên tài quân sự của quân đội ta vạch ra, huy động nguồn lực từ nhân dân để làm nên một chiến dịch hậu cần "không thể thực hiện được" như đánh giá của các chiến lược gia của quân đội viễn chinh Pháp. Con đường tiếp vận chiến lược đó đã tạo nên điều kiện quan trọng nhất, cũng là sự bất ngờ lớn nhất, để bộ đội ta có thể chiến đấu và chiến thắng trên chiến trường lịch sử Điện Biên Phủ. Trong những ngày tháng 4 lịch sử này, khi thực hiện hành trình tìm lại những dấu tích của con đường huyền thoại năm xưa, chúng tôi được hiểu rõ hơn về một thời những người dân Việt Nam hào hùng ra trận, hiểu rõ hơn vì sao chúng ta chiến đấu và chiến thắng...
Mốc số 0 cực tây là điểm đến thu hút khách du lịch.

Những người lính viết tiếp huyền thoại nơi cực tây Tổ quốc

Chuyến trở lại Tây Bắc tuần trước, tình cờ tôi gặp lại hai sĩ quan ở Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Điện Biên, cả hai anh đều từng là Đồn trưởng Đồn Biên phòng A Pa Chải- đồn xa nhất ở cực tây Việt Nam, Đại tá Nguyễn Đức Thắng nay là Trưởng phòng Trinh sát và Trung tá Đặng Tuấn, nay là Chánh Văn phòng Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh. Gần hai mươi năm gắn bó với Tây Bắc, đã đi rất nhiều nơi, gặp gỡ và thân thiết với nhiều bạn bè lính biên, nhưng không hiểu sao cực tây Việt Nam luôn thao thức trong tôi như một nơi chốn "thuộc về".