Thương lắm muối ơi!

Khi gió chướng về cũng là lúc Bạc Liêu vào vụ muối mới. Nhìn mấy diêm dân lực điền hì hục đẩy những chiếc hủ lô to đùng làm nhẵn mặt sân chuẩn bị rước nước vào đồng ai cũng mừng vui khó tả. Nghề muối cực lắm, nhưng đã làm nghề này rồi thì khó mà dứt ra cho được khi tình người, tình muối đã hòa quyện vào nhau.
Những bông hoa muối nhen lên niềm hy vọng về một mùa bội thu.
Những bông hoa muối nhen lên niềm hy vọng về một mùa bội thu.

Khi nói đến Bạc Liêu, nhiều người nghĩ ngay đến “vương quốc” của những cánh đồng muối bạt ngàn, ngút mắt. Bởi cái địa danh “muối ba thắt” vốn một thời nổi danh khắp nam kỳ lục tỉnh. Muối Bạc Liêu không chỉ ngon, mà còn trở thành một sản phẩm giàu tính văn hóa, nó giống như cái tình, cái nghĩa của con người Bạc Liêu lúc nào cũng mặn nồng, keo sơn.

Ngon như muối Bạc Liêu

Sản xuất muối là một trong những nghề truyền thống đã có bề dày lịch sử hàng trăm năm ở vùng đất Bạc Liêu. Từ xưa, nghề làm muối ở Bạc Liêu đã giúp cho nhiều đại điền chủ nổi danh giàu “nứt vách” như: ông Hội đồng Trạch, điền chủ Huỳnh Quái… Lưu truyền rằng họ giàu đến nỗi bạc bán muối phải đem ra sân mà phơi.

So với hạt muối được sản xuất ở các tỉnh miền trung, muối Bạc Liêu không sáng trắng bằng, vì nặng tình với biển phù sa. Muối Bạc Liêu có mầu trắng hồng, hạt khô chắc và không tạp mùi. Chính đặc điểm tự nhiên này, đã tạo cho muối Bạc Liêu mang hương vị độc đáo, rất riêng. Nhiều tỉnh, thành phố muốn có món ăn ngon đều phải nhập muối Bạc Liêu về chế biến, vì chỉ có muối Bạc Liêu mới tôn thêm mùi vị, hương sắc khi ướp, khi chế biến những món đặc sản. Đơn cử món ba khía Rạch Gốc ở tỉnh Cà Mau nổi tiếng khắp trong, ngoài nước là một điển hình.

Rồi cũng chính cái riêng này mà từ rất xưa, muối Bạc Liêu được ghe bầu chở xuất bán sang tận Campuchia để muối cá, làm nước mắm, làm khô tạo nên những đặc sản ngon bán đi khắp các nước Đông Nam Á. Và cho đến nay, muối Bạc Liêu cũng là sản phẩm duy nhất ở Việt Nam được đưa vào thị trường Nhật Bản, bởi chất lượng vượt trội so các loại muối khác, đó là mặn mà không chát đắng.

Tương tự, Hàn Quốc cũng chọn hạt muối sản xuất tại quê hương của xứ công tử Bạc Liêu để làm gia vị chế biến cho món kim chi, một trong những món ăn truyền thống nổi tiếng của đất nước này mà không phải thứ gia vị nào cũng có thể chen chân vào được.

Đây là những minh chứng cho việc hạt muối Bạc Liêu đã khẳng định được thương hiệu và có vị trí nhất định trên thị trường trong, ngoài nước.

Muối Bạc Liêu không chỉ ngon, mà còn trở thành một sản phẩm giàu tính văn hóa thấm đẫm cái tình, cái nghĩa của con người Bạc Liêu.
Muối Bạc Liêu không chỉ ngon, mà còn trở thành một sản phẩm giàu tính văn hóa thấm đẫm cái tình, cái nghĩa của con người Bạc Liêu.

Thủy chung với muối

Vào những ngày đầu tháng Chạp, trên những cánh đồng muối của huyện Đông Hải và huyện Hòa Bình, không khó để bắt gặp hình ảnh thân thuộc, hàng trăm diêm dân đang tất bật cho vụ muối mới. Những dáng người cần mẫn, mặn mòi như muối vẫn lặng lẽ làm việc dưới cái nắng chang nóng bức và trên môi họ luôn nở những nụ cười sáng bóng.

Có những hôm nắng cháy đến hoa cả mắt, nóng quá diêm dân phải nhảy ùm xuống kênh đắm mình cho mát, rồi lại tiếp tục leo lên phơi mình làm việc, đến nỗi, những tấm lưng trần đen trũi ấy ánh loáng như gương. Nghề muối cực và vất vả vậy đó, nhưng chẳng mấy diêm dân nghĩ đến chuyện bỏ nghề, kể cả ngay ở những thời điểm bị những cơn mưa trái mùa làm cho những mẻ muối to đùn tan theo bọt nước, cướp mất hết tất cả thành quả của diêm dân... Nước mắt diêm dân hòa vào vị mặn của nước mưa.

Tôi còn nhớ những lời tâm sự của chú Tư Thanh, một gia đình đã bốn đời gắn bó với hạt muối. “Vì đây là nghề cha truyền con nối nên nghề muối có vất vả, cực nhọc đến đâu cũng chưa ai nghĩ đến chuyện bỏ nghề. Thậm chí, có những vụ mùa mất giá, diêm dân phải đắng lòng vác bao muối cả chục kg để đi đổi lấy một kg gạo, nhưng không hiểu sao diêm dân vẫn cứ yêu cái nghề này như một thứ tình yêu ăn sâu trong máu”, chú Tư Thanh bộc bạch.

Phải rồi, làm sao mà bỏ muối cho được bởi diêm dân đã thương cái vị mặn mà của muối nên hễ “đi xa là nhớ”. Đây cũng là lý do mà bao đời nay diêm dân dù có lao cực đến đâu vẫn cứ chung tình với muối, họ thương muối như một thứ tình yêu cuồng nhiệt mà soạn giả Ngô Hồng Khanh đã thể hiện trong bài “Biển cạn” như: “muối Long Điền mặn nghĩa thủy chung”, hay “cá kèo kho muối Bạc Liêu, lấy chồng quê biển thêm yêu Gành Hào”…

Rồi nhiều xóm làng ở xã Long Điền cũng được gọi là xóm muối, hay ấp Diêm Điền thì có đến hàng trăm hộ dân đều sống bằng nghề làm muối. Không yêu, không gắn bó với muối sao được, khi tình yêu giữa người và muối đã đi vào thơ ca và nảy nở nên thứ tình yêu mãnh liệt, rồi không biết bao nhiêu đôi trai, gái đã kết duyên thành vợ, thành chồng của từ những ngày vất vả trên đồng muối.

Hành trình của chúng tôi lại tiếp tục băng bên những sân muối vừa được diêm dân lăn bóng nhẵn. Chợt nghe đâu đó vang lên câu ca dao hào sảng “chừng nào chưa cạn Biển Đông, Bạc Liêu còn muối anh không sợ nghèo”, câu ca thoáng có chút ngậm ngùi, nhưng niềm tin vào nghề muối lại tiếp tục được thắp sáng ước mơ để diêm dân thêm yêu thương hạt muối nhiều hơn. Phải chăng, trải qua bao gian lao và nhọc nhằn của một kiếp nhân sinh mà hạt muối dường như đã thắm đẫm tình đất, tình người, khi vị mặn của giọt mồ hôi đã hòa vào hạt muối nơi đây để sản sinh ra chất keo dính chặt tình người với muối!

Và thế nên, dù khoa học-công nghệ đã phổ biến và tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất của nhiều ngành nghề, lĩnh vực, nhưng diêm dân Bạc Liêu vẫn giữ phương pháp sản xuất truyền thống. Vì với họ, làm hạt muối theo phương pháp này, muối mới ngon. Thế nên, các cánh đồng muối vẫn được cải tạo bằng cách lăn “hủ lô” làm cho sân phơi bóng láng mới tiến hành lấy nước biển vào qua hệ thống kênh thủy lợi nối thông với biển. Sau này, đồng muối đã được áp dụng và khuyến khích nhân rộng mô hình sản xuất muối trắng trên sân trải bạt. Đó là cách diêm dân dùng bạt nhựa để trải trên mặt sân phơi và sản phẩm tạo ra là muối trắng với năng suất cao hơn…

Để phát huy giá trị mang lại từ hạt muối và khuyến khích diêm dân gắn bó với nghề truyền thống, Bạc Liêu đã ban hành Kế hoạch tái cơ cấu ngành gắn với phát triển nghề muối theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững. Đến nay, Bạc Liêu có tổng diện tích sản xuất muối gần 15.000 ha và cho tổng sản lượng gần 80 nghìn tấn/năm.

Nghề sản xuất, chế biến muối đã và đang được xây dựng thành mô hình phục vụ cho phát triển du lịch. Bên cạnh phát triển công nghiệp chế biến muối ăn, muối xuất khẩu, Bạc Liêu còn phát triển các sản phẩm từ muối phục vụ cho y tế, nhằm góp phần nâng cao giá trị của hạt muối.

Ông Trần Văn Thưa, Chủ tịch Hội đồng quản trị Hợp tác xã Diêm Điền (huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu) phấn khởi cho hay, năm nay, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổ chức festival muối ở Bạc Liêu. Nghe tin này diêm dân mừng không ngủ được vì nghề muối được tôn vinh. Nhưng điều mà diêm dân cần là sau festival, giá muối và đầu ra của hạt muối được bền vững hơn. Nghề muối ở Bạc Liêu đã được công nhận là di sản văn hóa rồi thì diêm dân phải khá, phải giàu mới đã.

Một mùa xuân mới lại về và sắc xuân như tràn ngập trên những cánh đồng bạt ngàn ánh bạc. Những bông hoa muối bung nở lấp lánh dưới nắng xuân như hứa hẹn một vụ bội thu và diêm dân chắc chắn sẽ giàu lên từ hạt muối.

Diêm dân Bạc Liêu vẫn giữ phương pháp sản xuất truyền thống, vì với họ, chỉ như vậy hạt muối mới ngon, mới bóng đẹp.

Diêm dân Bạc Liêu vẫn giữ phương pháp sản xuất truyền thống, vì với họ, chỉ như vậy hạt muối mới ngon, mới bóng đẹp.

Có thể bạn quan tâm

Chương trình văn nghệ Kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh tại Quảng trường Ba Đình sáng 2/9/2025.

Vinh quang mãi mãi thuộc về Nhân dân!

Đó là câu cuối trong bài diễn văn súc tích, ý nghĩa của Tổng Bí thư Tô Lâm trên Quảng trường Ba Đình lịch sử tại Lễ kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9 vừa qua. Cũng tại nơi đây, lời Quốc ca vang lên cùng những hình ảnh cờ hoa, những gương mặt ngời lên rạng rỡ của vạn người sẽ mãi mãi ghi vào tâm khảm nhân dân.

Nhà báo Hồng Châu, tức Thép Mới (bên phải) và nhà báo Cao Kim, tức Kim Toàn - hai nhà báo của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam từng bí mật hoạt động báo chí tại Sài Gòn - Gia Định trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968.

Nhà báo Kim Toàn - Người truyền cảm hứng

Câu chuyện bắt đầu từ giữa năm 2024, khi Bảo tàng Báo chí Việt Nam “nhận lệnh” của lãnh đạo Hội Nhà báo Việt Nam, chính thức khởi động việc xây dựng kế hoạch hoạt động cho năm 2025 - một năm đặc biệt vì có rất nhiều ngày lễ lớn trọng đại của đất nước.

Cổng đình Phú Gia.

Làng Chăm nghìn tuổi giữa đất Hà thành

Chuyện mà tôi đang kể là về vùng đất Phú Gia, một ngôi làng đặc biệt. Làng nằm cách trung tâm Hà Nội hơn mười cây số về phía tây bắc. Phú Gia xưa tên Nôm là làng Gạ, tục gọi làng Già rồi Bà Già hương; đến thời Minh Mạng là tổng Phú Gia, huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức, trấn Sơn Tây.

Trung tâm huyện Đạ Huoai, nơi có nhiều người dân Huế lập cư.

Một vùng quê Huế trên đất nam Tây Nguyên

Trong rất nhiều chương trình di dân sau ngày thống nhất đất nước, có câu chuyện về một vùng quê mới của người xứ Huế, được lập ra từ gần nửa thế kỷ trước. Vùng quê ấy xưa gọi là khu kinh tế mới Hương Lâm, nay thuộc xã Đạ Lây, huyện Đạ Huoai-vùng đất phía nam Lâm Đồng…

Những nhát búa phá đá mở đường, xuyên núi Xéo Sảng Lủng năm ấy. (Ảnh NVCC)

Tạc vào đá con đường Hạnh Phúc

Mùa xuân năm 1961, trong bài thơ mừng năm mới gửi đồng bào, đồng chí, chiến sĩ cả nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Mừng Việt Nam, mừng thế giới!/ Đường lên hạnh phúc rộng thênh thênh”. Đó là mùa xuân đầu tiên chúng ta thực hiện Nghị quyết Đại hội III (tháng 9/1960) của Đảng.
Lễ Thượng cờ tại Cột cờ A Pa Chải. (Ảnh Xuân Tư)

Vẹn nguyên tinh thần, ý chí Điện Biên

Tháng 5, từng con đường, ngõ phố trong thành phố Điện Biên Phủ lại kiêu hãnh thắp lên màu đỏ chói ngời của Quốc kỳ, của những biểu ngữ như hối giục người muôn phương tìm về nơi đây. Về với mảnh đất Điện Biên, về để thăm chiến trường xưa và cả những công trình mới, về để mỗi người con nước Việt cảm nhận sự chuyển mình mạnh mẽ của thành phố trẻ…
Trong ảnh: Nhân dân miền nam tham gia đấu tranh với Mỹ-ngụy trong Phong trào Đồng khởi. (Ảnh Tư liệu)

Kỳ 3: Những bài học sâu sắc, còn nguyên giá trị thời sự và thời đại

(Tiếp theo và hết)

“Đã nửa thế kỷ trôi qua, nhưng những bài học mà hoạt động binh vận trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước để lại vẫn còn nguyên giá trị thời sự, sâu sắc và cần được tiếp tục nghiên cứu, vận dụng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay” - PGS, TS Hồ Sơn Đài, giảng viên cao cấp, khoa Lịch sử, Trường đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, khẳng định như vậy trong cuộc trao đổi với chúng tôi về những điều cần tiếp tục thực hiện để có thể xác định chính xác tầm vóc, ý nghĩa lớn lao của “mũi tiến công chiến lược” - binh vận.

Hai cán bộ của Ban Binh vận đặc khu Sài Gòn- Gia Định: Ông Lê Quang Đức (người ngồi) và ông Cao Đức Trường (người đứng).

Kỳ 2: Những con đường “không giống ai” của tình yêu đất nước

Khác với hầu hết các lực lượng cách mạng cùng tham gia chiến đấu giành lại hoà bình, độc lập cho dân tộc, những cán bộ làm công tác binh vận phải nhận về mình rất nhiều nguy hiểm, thiệt thòi, khi luôn phải sống “hai mặt”, che giấu thân phận thật sự của mình, trong khi tìm mọi cách để cảm hoá, vận động các đối tượng binh sĩ ngụy quyền trở về với chính nghĩa, với dân tộc…
Sau khi ném bom dinh Độc Lập, phi công Nguyễn Thành Trung đã lái máy bay F5E hạ cánh an toàn xuống sân bay Phước Long. Ảnh tư liệu

Mặt trận “không đánh mà thắng"

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: Đánh mà thắng địch là giỏi, không đánh mà thắng càng giỏi hơn. Không đánh mà thắng là nhờ địch vận. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, truyền thống "tâm công" (đánh vào lòng người) của các bậc tiền nhân đã được Đảng Lao động Việt Nam phát triển lên một tầm cao mới và được quân và dân ta sử dụng như một thứ vũ khí sắc bén để tạo nên sức mạnh tổng hợp, áp đảo, đập tan mọi sự kháng cự của kẻ địch.

Ông Kuznetsov (bìa phải) và tác giả.

Từ Bí thư Tỉnh đoàn Komsomol đến ông chủ công ty cá tầm Thung Lũng Nắng

Ông Lê Khắc Nghị, một cựu cán bộ ngoại giao đã kết nối tôi với Gennady Kuznetsov, người bạn Nga có tính cách thâm trầm, giản dị và dễ mến. Thế rồi, chúng tôi đã có cuộc thăm viếng và trao đổi cởi mở. Câu chuyện mà tôi muốn kể dưới đây là một phần nhỏ trong hành trình cuộc đời của người đàn ông đến từ nước Nga xa xôi. Bởi biến động chính trị, Liên bang Xô Viết sụp đổ đã tạo nên bước ngoặt cuộc đời của Kuznetsov. Từ một Bí thư Tỉnh đoàn Thanh niên cộng sản Lênin (Komsomol), một cán bộ của Tỉnh ủy Magadan, anh trở thành ông chủ của Công ty cá tầm Thung Lũng Nắng giữa vùng rừng núi thuộc xã Đạ Sar (Lạc Dương, Lâm Đồng). Câu chuyện của chúng tôi không bắt đầu từ những con cá hay những lô sản phẩm trứng cá tầm cao cấp mà về một miền ký ức xưa cũ, những hoài niệm rừng rực, miên man trong tâm hồn người đàn ông Nga sinh năm 1957. Kuznetsov đã có một tuổi trẻ đầy nhiệt huyết, sôi nổi và thật giàu ý nghĩa. Với giọng trầm buồn, anh nói với tôi, đó là quãng thời gian đẹp nhất, đáng nhớ nhất trong cuộc đời mình.
Cựu chiến binh Nguyễn Đình Quốc kể về những năm tháng gian lao nhưng vô cùng anh dũng. Ảnh: LƯU XA

Những người kể chuyện hòa bình

Không chỉ kiên cường trong chiến đấu, nhóm cựu chiến binh bị địch bắt tù đày, trở về đời thường vẫn mang tinh thần bất khuất của người lính, không ngại gian khó. Các ông dày công xây dựng Bảo tàng Chiến sĩ cách mạng bị địch bắt tù đày, biến nơi đây thành “địa chỉ đỏ” tri ân các đồng đội đã ngã xuống, đồng thời lan tỏa lòng yêu nước và giá trị của hòa bình cho các thế hệ sau.
Lớp học mầm non ở buôn Ka Ming. (Ảnh: Uông Thái Biểu)

Đất giàu, đất học Ka Ming

Ngày trước buôn Ka Ming thuộc xã Gung Ré, nay là một trong những khu phố của thị trấn Di Linh (huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng). Với 100% dân số là đồng bào dân tộc Cơ Ho thuộc nhánh Srê, buôn làng này thật sự là một vùng đất lành, đất giàu và đặc biệt là đất học nổi tiếng trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số Tây Nguyên.
Lễ hội kỷ niệm 236 năm Chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa (1789 - 2025). Ảnh: Thành Đạt

Rộn rã mọi miền Xuân

Âm hưởng mùa xuân đang lan tỏa và ngân vang, trên mênh mang khắp ba miền Tổ quốc nghìn đời tươi đẹp. Mùa lễ hội, giữa trời đất giao hòa, căng trào nhựa sống, lòng người càng thêm phơi phới, rạng rỡ những góc nhìn...
Các chiến sĩ lữ đoàn 162 gói bánh chưng chuẩn bị đón Tết.

Đón xuân trên chiến hạm

Đón giao thừa trên chiến hạm không rượu, bia thuốc lá, hồi còi tàu thay cho pháo, nhưng lại có những điều đặc biệt khác mà ít người có thể hình dung ra được…
Ngọn hải đăng trên đảo. Ảnh: TIẾN DŨNG

Hành trình đến với “Đuôi rồng trắng”

Mỗi lần ra biển trong tôi không khỏi hồi hộp, rạo rực đợi chờ… Cái giây phút bước lên boong tàu đánh thức trong ta một cảm giác thật khác biệt, cảm giác của một người bước ra khỏi mặt đất đến với thế giới của sóng, gió và nước mênh mông. Tháng 4/1988, tôi ra Trường Sa háo hức trong tinh thần bảo vệ biển đảo quê hương trên mặt trận truyền thông với nhiệm vụ của một phóng viên ảnh. Lần này là đến với “Đuôi rồng trắng” - Bạch Long Vĩ trong thời bình yên rộng mở.
Ông Quang Văn Thu (thứ bảy, từ trái sang) và người dân phối hợp tuần tra đường biên, cột mốc cùng chiến sĩ Đồn Biên phòng Thông Thụ (huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An). Ảnh: NGUYỄN ĐẠO

"Cột mốc sống" nơi biên cương xanh thẳm

Nước ta có 4.510 km đường biên giới đất liền trải dài từ bắc tới nam. Chủ quyền quốc gia được xác lập, gìn giữ từ những cột mốc đánh dấu tọa độ và từ chính những bước chân lặng thầm bền bỉ không kể ngày - đêm, mưa - nắng của những người lính biên phòng cùng hàng hàng lớp lớp người dân tình nguyện trở thành những "cột mốc sống".
Đoàn thực hiện nghi lễ chào cờ tại đảo Cồn Cỏ. Nguồn: ĐI ĐỂ HIỂU

Hành trình của lòng tự hào và biết ơn

Bùi Thiên Phú, cậu bé 10 tuổi ở thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh vừa có chuyến đi đầu tiên cùng ông ngoại về miền đất lửa Quảng Trị, nơi hơn 50 năm trước ông của cậu từng chiến đấu. Đứng trên cầu Bến Tắt bắc qua vĩ tuyến 17 lịch sử - nơi từng là ranh giới tạm thời chia cắt đất nước, Phú nhìn theo hướng tay ông ngoại chỉ và nghe ông kể: "Ngày ấy, đơn vị ông đóng quân ngay phía bên trái cầu, làm nhiệm vụ bảo đảm thông tin liên lạc thông suốt"...
Thị trấn Thanh Chương hôm nay. Ảnh: Lê Anh Dũng

Thanh Chương - Miền văn hùng võ lược

Nếu kể đến một vùng quê địa linh nhân kiệt, kiên cường cách mạng và hiếu học, không thể không nói đến Xứ Nghệ. Nói đến Xứ Nghệ, có lẽ không thể không nói đến Thanh Chương.
Kênh Nhiêu Lộc-Thị Nghè - một dự án hồi sinh dòng chảy hiệu quả tại Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh: QUỲNH TRẦN

Kỳ 3: Từ phương thức, nguồn lực đến mô hình

Nhiều văn bản pháp luật quan trọng xác định khung khổ pháp lý cũng như định chế bảo vệ tài nguyên nước nói chung và các dòng sông nói riêng đã được ban hành trong những năm gần đây. Dẫu vậy, để có thể tạo nên những tác động thật sự tích cực, hồi sinh những dòng sông đang "chết mòn", theo nhiều chuyên gia, cần nâng cao trách nhiệm quản lý của các cơ quan chức năng, đồng thời tập trung xây dựng các mô hình cộng đồng bảo vệ sông ngòi.
Thế hệ hôm nay luôn ghi nhớ công lao các anh hùng liệt sĩ.

Giá trị của hòa bình, độc lập, thống nhất

Để giành được độc lập dân tộc, giữ trọn vẹn bờ cõi Tổ quốc, hàng triệu người con ưu tú của đất nước đã dâng hiến tuổi xuân, sẵn sàng hy sinh bản thân mình. Hàng nghìn nghĩa trang liệt sĩ, hàng trăm công trình tượng đài, đài tưởng niệm vẫn đang nhắc nhở chúng ta, những người được sống, làm việc và học tập trong hòa bình: Là công dân của một đất nước độc lập, tự do, mỗi chúng ta không bao giờ được lãng quên sự hy sinh ấy. Hòa bình, độc lập và thống nhất là vô giá!
Nạo vét, khơi thông dòng chảy sông Lừ (Hà Nội). Ảnh: HẢI MIÊN

Kỳ 2: "Cắt ngọn" hay "cải tạo gốc"?

Mặc dù số liệu ghi nhận các trường hợp xả thải sai quy định bị phát hiện, mức độ xử phạt vi phạm ngày càng tăng trong những năm gần đây, nhưng tình trạng ô nhiễm các dòng sông vẫn không được cải thiện đáng kể. Cùng với nỗ lực xử lý "phần ngọn", đã có những mô hình cải tạo "từ gốc" được triển khai.
Sông Cầu đoạn chảy qua Bắc Ninh phải tiếp nhận nhiều nguồn nước thải chưa được xử lý từ các làng nghề. Ảnh: VĂN CHƯƠNG

Cứu sông ngòi ô nhiễm - cách nào?

Sông ngòi bị ô nhiễm nặng nề là thực trạng nhức nhối diễn ra từ nhiều năm qua trên cả nước, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống người dân. Dù đã có nhiều dự án cải tạo, cải thiện nguồn nước được triển khai, song, hầu hết các dự án đều chưa thật sự phát huy hiệu quả. Cách nào để các dòng chảy thật sự là nguồn sống trong lành cho môi trường và con người? Đó vẫn đang là câu hỏi lớn treo lơ lửng...
Không gian hồ sinh thái Na Hang mang một mầu xanh huyền bí.

Vùng thẫm xanh tuyệt sắc

Đặt chân đến bến tàu lòng hồ sinh thái Na Hang (Tuyên Quang), choán ngợp trong tôi là cảm giác yên bình giữa một vùng trong xanh, thấm đến cả năm giác quan. Nơi đây, mỗi người được thảnh thơi thả mình theo tiếng sóng nước, tiếng gió vi vu quyện hòa những âm thanh kỳ diệu của thiên nhiên. Người Na Hang, Lâm Bình đã dựa vào những vẻ đẹp thiên nhiên ban tặng để làm du lịch, gìn giữ văn hóa và từng bước nâng cao đời sống tinh thần của mình.
Lễ đài Ba Đình đầu tiên bằng gỗ ván do KTS Nguyễn Văn Ninh thiết kế. Nguồn: Gia đình Kiến trúc sư Nguyễn Văn Ninh cung cấp.

Kỳ 2: “BÁC Ở THẾ NÀY LÀ QUÁ SANG TRỌNG” (Tiếp theo và hết)

Được sống những khoảnh khắc bên vị lãnh tụ kính yêu của toàn dân tộc, được thiết kế, xây dựng nơi ở và làm việc của Bác là những khoảnh khắc vàng của người kiến trúc sư mà không phải ai cũng vinh dự có được. Nhân cách và trí tuệ vĩ đại, lòng độ lượng, bao dung, nhân hậu, khiêm tốn và giản dị của Người mãi mãi tỏa sáng trong tâm hồn của Nguyễn Văn Ninh; luôn thức dậy trong lòng vị kiến trúc sư niềm khao khát sáng tạo và cống hiến cho dân, cho nước…

Bác Hồ chụp ảnh lưu niệm cùng nhóm thiết kế và thi công nhà sàn của Người. Nguồn: Gia đình cung cấp

Kỳ 1: "Chú lo cho bác một ngôi nhà sàn truyền thống…"

Người Việt Nam nào cũng từng lưu vào trái tim mình hình ảnh ngôi Nhà sàn trong Khu Di tích quốc gia đặc biệt Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch. Ngôi nhà sàn-nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sống và làm việc trong hơn một thập niên cho đến ngày Người mãi mãi về cõi vĩnh hằng đã trở thành một trong những biểu tượng thể hiện cốt cách thanh tao, cao quý của vị Cha già dân tộc. Người thiết kế và chỉ huy thi công nhà sàn là kiến trúc sư Nguyễn Văn Ninh, nhân vật trong câu chuyện mà tôi đang kể…
Lắng nghe những hồi ức của cụ Trần Xuất Chúng.

Tìm lại dấu tích con đường huyền thoại

Tròn 70 năm trước, một con đường tiếp vận chiến lược với những điều kiện "không tưởng" đã được những bộ óc thiên tài quân sự của quân đội ta vạch ra, huy động nguồn lực từ nhân dân để làm nên một chiến dịch hậu cần "không thể thực hiện được" như đánh giá của các chiến lược gia của quân đội viễn chinh Pháp. Con đường tiếp vận chiến lược đó đã tạo nên điều kiện quan trọng nhất, cũng là sự bất ngờ lớn nhất, để bộ đội ta có thể chiến đấu và chiến thắng trên chiến trường lịch sử Điện Biên Phủ. Trong những ngày tháng 4 lịch sử này, khi thực hiện hành trình tìm lại những dấu tích của con đường huyền thoại năm xưa, chúng tôi được hiểu rõ hơn về một thời những người dân Việt Nam hào hùng ra trận, hiểu rõ hơn vì sao chúng ta chiến đấu và chiến thắng...
Mốc số 0 cực tây là điểm đến thu hút khách du lịch.

Những người lính viết tiếp huyền thoại nơi cực tây Tổ quốc

Chuyến trở lại Tây Bắc tuần trước, tình cờ tôi gặp lại hai sĩ quan ở Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Điện Biên, cả hai anh đều từng là Đồn trưởng Đồn Biên phòng A Pa Chải- đồn xa nhất ở cực tây Việt Nam, Đại tá Nguyễn Đức Thắng nay là Trưởng phòng Trinh sát và Trung tá Đặng Tuấn, nay là Chánh Văn phòng Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh. Gần hai mươi năm gắn bó với Tây Bắc, đã đi rất nhiều nơi, gặp gỡ và thân thiết với nhiều bạn bè lính biên, nhưng không hiểu sao cực tây Việt Nam luôn thao thức trong tôi như một nơi chốn "thuộc về".