Sa Huỳnh muối mặn trăm năm

Diêm dân lưng áo ướt đẫm mồ hôi cần mẫn cào muối giữa trưa nắng như đổ lửa. Những ụ muối trắng tinh phơi mình dưới nắng neo nỗi buồn trong mắt vì “giá bán cả bao muối chưa đủ mua tô phở”. Dẫu vậy, bao người vẫn dãi nắng dầm sương làm ra những hạt muối mang hương vị mặn mòi của biển...

Chật vật với muối nhưng cuộc sống diêm dân Sa Huỳnh vẫn khó khăn.
Chật vật với muối nhưng cuộc sống diêm dân Sa Huỳnh vẫn khó khăn.

Nghề phơi nắng

Ngày lễ, diêm dân tụ họp dưới tán cây râm mát bên ngôi miếu thờ tổ nghề muối Sa Huỳnh (huyện Đức Phổ, Quảng Ngãi). Họ chung tay sửa soạn, thành kính dâng cúng cỗ chay và hôm sau chuyển sang cỗ mặn. Lễ cúng mặn luôn có con heo khá lớn cùng nhiều sản vật quê hương. Dẫu cuộc sống khó khăn nhưng mâm cỗ luôn tươm tất, thể hiện sự ghi nhớ công ơn đối với người tạo nên đồng muối giúp bao người có cơm ăn, áo mặc.

Diêm dân Võ Tấn Phát, ở xã Phổ Thạnh (huyện Đức Phổ, Quảng Ngãi) với đôi chân trần bước tập tễnh trên bờ ruộng nóng rát, gánh muối nặng oằn vai. Chiếc đòn gánh kẽo kẹt như tiếng thở than của bao kiếp diêm dân nhọc nhằn trên ruộng muối. Những hạt muối trắng tinh từ trong thúng nghiêng chảy thành đống cao dần lấp lóa ánh nắng. Bao bận mồ hôi ướt áo để làm ra hạt muối trắng mang hương vị mặn mà của biển. Có người đặt vè trêu diêm dân: “Nậu nại (dân làm muối) đã dại lại quê (quê mùa)/Mát trời thì về, nắng lại ra phơi”. Vậy nên da của diêm dân sạm đen vì nắng gió trên ruộng đồng. “Trời nắng chói chang nhưng chúng tôi vẫn gắng sức san phẳng và đầm chặt nền, đưa nước vào ruộng, kiểm tra độ mặn, cào muối rồi oằn lưng gánh muối. Nước mặn từ biển qua đầm rồi vào ô chứa mươi ngày cho tăng thêm độ mặn. Sau đó, đưa nước vào ruộng phơi nắng, chan thêm nước rồi đảo đều đến ba ngày thì thành muối”, anh Phát cho biết.

Lão diêm Đỗ Chiếm Nguyên bị “nhiễm mặn” sau hơn nửa thế kỷ gắn bó với ruộng muối. Trưa nắng, ông ráng sức nâng chiếc đầm gỗ nện chặt nền ruộng sau khi san phẳng. Chốc lát, ông đưa tay áo lau mồ hôi chảy thành dòng trên gương mặt sạm đen, hằn sâu vết chân chim theo năm tháng. Thấm mệt, ông ngồi trên bờ múc từng thau nước nóng rát như sắp sôi bốc khói đổ vào ô ruộng muối bên cạnh. Ông Nguyên nói: Nắng nóng càng nhiều thì càng phải ra đồng vì muối mau kết tinh hơn những hôm mát trời. Những người không quen hoặc yếu sức là bị xây xẩm mặt mày, ngất xỉu vì nắng đấy.

Ven đường làng, nhiều phụ nữ hối hả dồn muối vào bao bán cho thương lái giữa trưa nắng. Những bao muối trĩu nặng được cánh đàn ông gắng sức nhấc lên vai rồi vác đến chất lên xe tải. Dáng đi mệt nhọc nhưng trên những gương mặt sạm đen vẫn nở nụ cười tươi. “Mỗi ký muối chỉ bán được 450 - 500 đồng nhưng có người mua là vui rồi. Nhiều lúc muối ế phải đến tận nhà tư thương năn nỉ nhưng họ không mua vì chẳng có thị trường tiêu thụ. Nếu giá muối cao thì chúng tôi càng vui hơn nữa”, diêm dân Võ Tấn Nghi bộc bạch.

Chuyện trăm năm

Theo sử liệu, nghề sản xuất muối ở Sa Huỳnh bắt đầu hơn 200 năm trước. Thuở ấy, có người đàn ông họ Ngô từ đất bắc di cư vào nam định cư cạnh vùng biển Sa Huỳnh bốn mùa lộng gió. Nơi đây có đầm Nước Mặn thông với đại dương qua cửa biển Sa Huỳnh. Cạnh đầm nước là khu đất sình lầy với lau cỏ phất phơ trong gió. Lúc rỗi rãi, ông thường dạo quanh bờ đầm thưởng ngoạn trời nước bao la. Ngày nọ, ông phát hiện vũng nước đọng có lớp màng mầu trắng lấp lánh dưới nắng. Ông đưa tay sờ nhẹ, lớp màng vỡ thành những hạt nhỏ mang vị mặn đậm đà khi nếm thử trên đầu lưỡi. Những hạt muối ấy giúp ông ý tưởng sử dụng nguồn nước mặn trong đầm sản xuất muối. Ông cần mẫn phát dọn, be bờ, tạo thành những ô ruộng vuông vức trước ánh mắt tò mò của cư dân trong vùng. Sau nhiều ngày chờ đợi, mọi người hồ hởi đón nhận những hạt muối đầu tiên từ tay ông trao tặng. Họ vui mừng khôn xiết rồi gắng sức cùng ông mở mang ruộng đồng, dâng cho đời hạt muối trắng đậm đà hương vị biển khơi. “Diêm dân ghi nhớ ơn ông nên cùng nhau góp tiền của và công sức xây dựng miếu thờ. Vào ngày rằm và mồng một hằng tháng, chúng tôi sửa soạn hoa quả rồi thắp hương khấn vái cầu cho mùa màng bội thu, đời sống được no đủ. Rằm tháng bảy và ngày hôm sau, chúng tôi tổ chức cúng lớn với đông đảo diêm dân cùng con em làm ăn phương xa trở về tham dự”, cụ Nguyễn Hiến, Trưởng ban Tế tự miếu thờ tổ nghề muối Sa Huỳnh cho biết.

Mùa nối tiếp mùa đi qua đồng muối trong tiếng sóng rì rầm vỗ về bờ cát. Dòng nước mặn từ đại dương qua đầm đến với những thửa ruộng để làm ra hạt muối, là tinh hoa của biển và trời. Sau Tết Nguyên đán, họ tất bật ra đồng tu sửa bờ, san phẳng và đầm chặt nền ruộng để bước vào vụ mới. Khi mưa giăng kín đất trời, họ rời ruộng sau chuỗi ngày “bán mặt cho muối, bán lưng cho trời” để đổi lấy miếng cơm manh áo. “Thời chiến tranh làm muối cơ cực lắm! Trước Tết, diêm dân chung sức đắp đê ngăn nước giữa đầm và đồng muối bị máy bay Mỹ ném bom phá tan hoang. Mọi người phải gắng sức đắp lại đê trong tủi hận. Bây giờ Nhà nước đắp đê chắc chắn nên chúng tôi cũng đỡ khổ. Dẫu vậy, làm muối vẫn vất vả hơn so công việc khác, nhưng nhiều người vẫn cố giữ nghề. Bởi vì, đây là nghề truyền thống do ông cha truyền lại, bỏ đi không nỡ. Nhưng ngặt nỗi giá muối quá thấp nên cuộc sống gặp nhiều khó khăn”, lão diêm Trần Ngọc Cảnh cho biết.

“Mặn chát” kiếp nghèo

Gần cả vụ quần quật trên mẫu ruộng, vợ chồng ông Đỗ Chiếm Nguyên thu được hơn 50 tấn muối. Gia cảnh túng bấn nên ông bán 20 tấn muối với khoản tiền chưa đến 10 triệu đồng. Đôi mắt đượm buồn nhìn những hạt muối trắng tuột dần khỏi lòng bàn tay chai sần, ông Nguyên thở dài: Muối rẻ quá nên tôi trữ hơn 30 tấn chờ giá nhích lên cao hơn. Mỗi ngày công làm muối chỉ được vài chục nghìn đồng. Vậy nên cái nghèo cứ đeo bám từ đời ông cha đến giờ.

Gia đình ông Nguyễn Thành Út có bốn đời gắn bó với ruộng muối. Gần 40 năm lam lũ trên ruộng đồng, ông được diêm dân tín nhiệm bầu giữ chức Chủ tịch Hội đồng quản trị, Giám đốc Hợp tác xã muối 1 Sa Huỳnh. Sản lượng muối thu hoạch hằng năm trên dưới 4.000 tấn nhưng “lương” của ông chưa đến một triệu đồng. “Bán bốn tạ muối mới được 200.000 đồng, chỉ đủ bỏ phong bì tiệc cưới. Xã viên thu nhập quá thấp nên mỗi năm hợp tác xã chỉ thu được vài triệu đồng”, ông Út than thở.

Sáng chớm thu tám năm trước, hàng trăm diêm dân hớn hở tụ họp tại sân Trường tiểu học số 3 Phổ Thạnh, dự buổi công bố thương hiệu muối Sa Huỳnh. Những gương mặt sạm đen dãi dầu nắng gió rạng ngời niềm vui vì sản phẩm của bao kiếp người “còng lưng” trên ruộng muối được công nhận thương hiệu. Nhiều người chuyền tay nhau xem quyết định công nhận thương hiệu, hể hả nói cười. Có cụ bà chống gậy chân bước run run đến sờ biểu trưng thương hiệu muối Sa Huỳnh, mắt lệ hoen mi. Họ hy vọng hạt muối sẽ đến tay người tiêu dùng cả nước, mang lại cuộc sống sung túc cho diêm dân. Nhưng niềm vui thoáng qua như gió giữa trưa hạ oi nồng, “muối bán rẻ như cho” xua tan hy vọng vừa nhen nhóm trong lòng.

Nhạc sĩ Nguyễn Đức Toàn để lại cho đời những ca từ mượt mà: “...Muối Sa Huỳnh mặn mà tha thiết/Như những tấm lòng hiền hậu thủy chung...”. Hạt muối nơi đây mặn dịu, góp phần tạo nên những món ngon cho đời thêm ý vị. Nhưng bao đời diêm dân vẫn lận đận, phận nghèo đeo bám trăm năm.

Đồng muối Sa Huỳnh có diện tích hơn 116 ha với gần 600 hộ dân tham gia sản xuất. Sản lượng muối hằng năm trên dưới 8.000 tấn. “Chúng tôi sẽ vận động người dân đầu tư sản xuất muối sạch, chất lượng cao. Xã cũng sẽ phối hợp cùng đơn vị chức năng giới thiệu, quảng bá muối gắn với văn hóa Sa Huỳnh có niên đại trên dưới 3.000 năm trước. Bên cạnh đó, xã sẽ vận động người dân tham gia mô hình du lịch cộng đồng, tạo điều kiện cho du khách thưởng ngoạn và trải nghiệm cuộc sống của diêm dân”, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch UBND xã Phổ Thạnh Vũ Minh Tâm cho biết.

Có thể bạn quan tâm

Mỗi phiên chợ giao dịch hàng nghìn con trâu, bò với giá trị trên dưới 50 tỷ đồng.

Chợ trâu, bò giữa lưng trời

Khi sương mù còn đặc quánh, phủ trắng trên những mái nhà sàn, thì ở một thung lũng nhỏ nơi lưng chừng núi Nghiên Loan, nhịp sống đã hối hả. Đó là phiên chợ "đặc biệt" của cả khu vực miền núi phía bắc - Chợ trâu, bò Nghiên Loan (xã Nghiên Loan, Thái Nguyên).

Đoàn Thái Cúc Hương.

Thế giới cổ tích từ giấy dó

Một tâm hồn nghệ sĩ, một bàn tay khéo léo như nghệ nhân, những câu chuyện bất tận về văn hóa truyền thống và luôn khiêm tốn nhận mình là một thợ thủ công.

Nghệ nhân Nguyễn Phương Uyên tạo dáng cho bonsai mini.

Hơn cả một thú chơi

Nằm trên đường Tô Hiến Thành, phường Nghĩa Lộ, tỉnh Quảng Ngãi, ngôi nhà của ông Nguyễn Phương Uyên (54 tuổi) nổi bật hơn hẳn nhờ hàng chục chậu cây bonsai.

Thầy Nam cần mẫn với mô hình du lịch sinh thái. Ảnh: BẢO LONG

Từ bục giảng đến miền quả ngọt

Ở phường Chũ (tỉnh Bắc Ninh), có một người thầy giáo không chỉ truyền cảm hứng trên bục giảng, mà còn mang nhiệt huyết và sự sáng tạo của nghệ thuật để góp phần tạo nên một không gian du lịch xanh. Đó là thầy Đinh Phương Nam, thầy giáo dạy mỹ thuật theo đuổi mô hình du lịch nông nghiệp-sinh thái ở đồng bằng Bắc Bộ.

Tên lửa vác vai A72. Ảnh: Bảo tàng Phòng không - Không quân

Bí mật của 60 giây quyết định

“Có mấy năm thôi mà", Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Nguyễn Văn Thoa nói thế khi chúng tôi hỏi về những ngày quân ngũ, vác trên vai chiếc tên lửa A72 và hạ gục bao nhiêu máy bay Mỹ - ngụy.

"Bố" Kiên và bé Di tại lớp học ở Cát Cát.

Mái ấm ở thung lũng Cát Cát

Tôi đến Cát Cát (phường Sa Pa, tỉnh Lào Cai), bản làng người H'Mông được du khách ví như viên ngọc đẹp nhất Tây Bắc. Tiết trời trong nhưng sương mù vẫn đùn lên từ phía dưới thung lũng Ý Lình Hồ như những đụn bông trắng tinh.

Tại một địa điểm giao lưu của nhiều người yêu đĩa than tại Hà Nội.

Sống chậm với đĩa than trong thời đại số

Trong thời đại mà một thiết bị đeo tay có thể chứa đến 60 triệu bài hát, việc lựa chọn nghe nhạc từ một chiếc đĩa than tưởng như là lỗi thời. Nhưng thực tế, đó lại là biểu hiện của một xu thế tìm lại sự nguyên bản, chậm rãi và thật lòng trong trải nghiệm thưởng thức.

La Quốc Bảo đánh giá hiện trạng chiếc áo cưới hoàng gia triều Nguyễn vừa được sưu tầm từ Hà Lan.

Sợi tơ mong manh kết nối trăm năm

Khi nói đến sưu tầm đồ cổ ở Việt Nam, người ta thường nghe tới đồ gốm, sành sứ, hay đồ gỗ… chứ ít ai biết đến những món đồ vải mà qua đó thể hiện tay nghề thêu huy hoàng, vang danh thế giới của người Việt hàng trăm năm trước.

Nguyễn Ngọc Minh Trang kể chuyện di sản bằng logo.

Trang Faifo và hành trình kể chuyện di sản

Trang Faifo chính là Nguyễn Ngọc Minh Trang, 23 tuổi, một nhà thiết kế đồ họa trẻ với tư duy dám nghĩ, dám thể hiện cá tính cá nhân. Niềm đam mê văn hóa quê hương đã tạo bệ phóng cho cô tỏa sáng, mang bản sắc nghệ thuật Việt.

Dưới làn nước xanh này là hơn 20 căn nhà sàn của người dân Kim Vân. Ảnh: TÙNG VÂN

Ám ảnh ở “rốn ngập” Kim Vân

Kim Vân là thôn vùng lõi Khu bảo tồn thiên nhiên Kim Hỷ, thuộc xã Văn Lang, tỉnh Thái Nguyên, nằm trong một "lòng chảo" lớn bao bọc bởi núi đá. Đất canh tác hạn chế, cuộc sống của đồng bào dân tộc thiểu số nơi đây muôn vàn khó khăn với hơn một nửa trong tổng số 112 hộ dân nghèo và cận nghèo.

Bác sĩ Nguyễn Văn Quốc Trí đang khám cho bệnh nhân.

Như mây trắng A Xan

Con đường ngoằn ngoèo vượt qua bao triền núi, vắt mình giữa những quầng mây trắng đưa chúng tôi đến xã Hùng Sơn (trước đây là các xã A Xan, Tr’Hy, Ga Ry, Ch’Ơm của tỉnh Quảng Nam) - vùng đất tận cùng phía tây thành phố Đà Nẵng giáp biên giới nước bạn Lào.

Bà Vàng Thị Sỏng trong căn bếp của người La Chí.

Triết lý của những người phụ nữ

Mỗi bận chồng đánh, Lý Tả Mẩy hay ra chợ Sa Pa ngồi khóc. Đánh lại chồng thì không đủ sức, bỏ thì không được vì lấy rồi thì ai lại bỏ, Mẩy nghĩ mình phải tự lập, nhưng Mẩy chưa biết làm gì. Nên Mẩy vừa mang đồ ra chợ bán, vừa ngồi khóc, vừa nghĩ.

Bà Nguyệt đi phát gạo cho người dân vùng ngập nước.

Ở nơi có những đùm bọc, sẻ chia

Một tâm trạng rất khó tả khi chúng tôi cùng với Đoàn thiện nguyện CLB Nhà báo nữ Việt Nam đi lên Thái Nguyên để đến Trung tâm Bảo trợ xã hội (TT BTXH) Hường Hà Nguyệt, nằm trên đất xã Đồng Hỷ. Gần như là bàng hoàng, thậm chí rớt nước mắt vì vẻ tiêu điều không tránh khỏi.

Học sinh Trường THPT Chuyên Bắc Kạn giúp dọn dẹp, vệ sinh môi trường tại Trường THPT Chuyên Thái Nguyên.

Tình người vượt qua lũ dữ

Đêm 7/10, mưa như trút nước, nước sông Cầu dâng cao, tràn qua đê đổ xô vào các phường trung tâm của Thái Nguyên. Chưa đầy hai tiếng đồng hồ, cả khu vực trung tâm chìm trong biển nước. Giữa đêm tối, nhiều hộ dân nhanh chóng bị cô lập, nhiều người phải trèo lên tầng ba, nóc nhà gọi cứu hộ.

Tình yêu hát văn từ lớp học thiếu ánh sáng

Tình yêu hát văn từ lớp học thiếu ánh sáng

Dù nói là chỉ hoạt động mỗi thứ tư hằng tuần, nhưng không ngày nào lớp học chầu văn của nghệ sĩ Tuyết Tuyết (trong ảnh) ngưng tiếng hát. Điệu xá, điệu dọc, cờn, phú cứ tang tính tình vang lên. Các em học sinh đến đây học miễn phí còn được mẹ Tuyết bồi dưỡng tiền đi lại, quà vặt.

TS Lê Bá Khánh Trình chụp hình cùng đội tuyển Trường Phổ thông Năng khiếu năm 2024. Ảnh: NVCC

Toán học và cuộc đời

TS Lê Bá Khánh Trình hay nói vui, rằng ông có duyên với Toán học nên ngay cả lúc về hưu, tưởng rảnh lại thành bận. Ở tuổi 63, người nhà vẫn thấy ông ngày ngày đăm chiêu nghĩ đề Toán mới, thêm cách giảng hay để truyền cảm hứng, kinh nghiệm cho học trò trên chặng đường chinh phục các giải đấu lớn.

Một trong những vườn hồng trên đỉnh Khưa Dầy. Ảnh: TÙNG VÂN

“Làm tươi” hồng cổ trên đỉnh Nà Chom

Đến Nà Chom vào dịp thu sang, trên đỉnh Khưa Phát, Khưa Dầy, giữa tiếng chim hót, gió reo rì rào là bóng những cây hồng cổ thụ. Với tuổi đời từ vài chục đến hàng trăm năm, chúng không chỉ là chứng nhân của thời gian mà còn là báu vật vô giá, kết tinh hương vị ngọt ngào của mảnh đất và con người nơi đây.

Chị Lê Thị Hà tạo phôi trên thân gỗ trắc đen.

Tài hoa đặc biệt của cô gái Gò Nổi

Ngày trước, xã Gò Nổi (thành phố Đà Nẵng) từng là vùng ươm tơ dệt lụa nổi tiếng. Con gái Gò Nổi siêng năng, chăm chỉ với câu ca dao: “Tiếng đồn con gái Bảo An (Gò Nổi). Sáng thời dệt cửi, chiều đan mành mành”.

Học viên trao đổi bài học.

Những lớp học đặc biệt giữa đại ngàn

Khi ánh nắng cuối ngày buông dần sau núi, những “học viên đặc biệt” ở tuổi xế chiều tại các thôn, bản vùng cao lại rời nương rẫy về nhà để chuẩn bị đến lớp học cái chữ. Những học trò ấy đã bước qua nửa đời người, mái tóc đã bạc, đôi tay chai sạn, nay cầm bút với khao khát viết tiếp giấc mơ con chữ còn dang dở.

Ông Hùng hướng dẫn học trò làm mã cổ.

Bạc vàng hàng mã (kỳ 1)

Hàng mã vốn không xa lạ trong đời sống thường ngày của người dân Việt Nam. Hàng mã mang tính chất “thế” cho đồ vật, con vật, thậm chí cả người, nhằm “hiến” về cõi xa xăm, qua đó thỏa mãn nhu cầu tâm linh, tín ngưỡng một cách bức thiết mà bớt đi sự tốn kém.

Hải sản tươi ngon tại chợ Gú. Ảnh: LƯƠNG HÀ

Người về chợ Gú

Chợ Gú nằm ngay bên đường Hổ Đội, xã Thái Thụy, tỉnh Hưng Yên, sát bờ tả của sông Diêm Điền. Từ xưa, chợ Gú vốn là cảng cá của tàu thuyền mỗi chiều về neo đậu. Chợ họp cả ngày. Buổi sáng, hàng hóa là các thứ thu hoạch được trong đồng, ngoài bãi.

Lò làm sợi cao lầu của gia đình ông Trái đang hoàn thiện những khâu cuối cùng.

Thương sợi cao lầu

Nhìn chiếc đồng hồ ám khói treo trên tường, thấy điểm 5 giờ 15 phút, anh Tạ Ngọc Hồng (xã Cẩm Châu, TP Hội An, nay là phường Hội An Đông, TP Đà Nẵng) nhẹ nhàng mở xửng hấp trên bếp củi bập bùng. Khói tỏa nghi ngút, mùi gạo và nước tro quyện vào nhau, thơm ngát.

Già Hoàng Văn Cầu chế tác mặt nạ Ka Đong.

Huyền bí mặt nạ Ka Đong

Giữa bản làng dân tộc Sán Chỉ, dưới mái nhà sàn luôn lưu giữ những chiếc mặt nạ mang ý nghĩa tâm linh với tên Ka Đong. Những chiếc mặt nạ gỗ, nhiều mầu sắc, thậm chí khá dữ tợn lại ẩn sâu giá trị tốt đẹp về bản sắc văn hóa và ước mơ, mong mỏi về cuộc sống yên bình, no ấm.