Nhà thơ & Bài thơ hay

Nhà thơ Phạm Công Trứ: Tựa vào những câu thơ hay

Trong truyền thống, nhất là với thơ trung đại, người đọc thơ thường hay chú ý đến những câu chữ được coi là tuyệt bút trong bài: những “nhãn tự”, “thần cú”... Cách nhìn này, khi bước sang văn học hiện đại vẫn được chú ý, nhưng không còn là duy nhất, cuối cùng.
Ký họa chân dung nhà thơ Phạm Công Trứ của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.
Ký họa chân dung nhà thơ Phạm Công Trứ của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Tuy nhiên, một thực tế không thể phủ nhận được là, có bài được gọi là hay nhờ vào câu thơ hay và có những bài được coi là hay nhờ vào chỉnh thể toàn bài. Ở trường hợp thứ nhất, cái hay của bài tựa vào những câu thơ hay; còn trường hợp thứ hai, cái hay của bài tựa vào toàn khối, phân bố trên tất cả các khổ/câu/dòng/chữ thơ một cách không đồng đều.

Trường hợp sau gồm những bài thơ có tứ thơ độc đáo, được triển khai tinh, sắc, gọn, tạo nên hiệu quả tổng lực. Tôi cho rằng, thơ của Phạm Công Trứ nghiêng về trường hợp thứ nhất, tức phần lớn những bài thơ hay nhờ tựa hẳn vào những câu thơ hay.

Câu thơ hay luôn có khả năng bay ra khỏi từ trường của toàn bài để trở nên độc lập. Những câu thơ hay của Phạm Công Trứ về cơ bản thuộc dạng này. Tình tôi là một mũi tên / Đã ra khỏi nỏ là quên đường về giờ đây không còn cần tựa vào cả bài Tình tôi I, nơi mà nó sinh ra nữa. Nó có đời sống của riêng mình, mang dáng dấp của một châm ngôn, cứ thế đi thẳng vào đời sống tinh thần của cộng đồng.

Trứ là người gốc gác thôn quê. Anh cũng luôn nhận mình là “người quê”, “gã quê”, “nhà quê”... và người như thế thì có “thơ quê”. Cái hay của nhà thơ họ Phạm này không chỉ là vốn sống, tri thức địa-sinh thái-xã hội-văn hóa quê, mà trong thẳm sâu tâm hồn, anh đã nuôi nấng, gìn giữ được một đứa trẻ con nhà quê, để mỗi khi được phát động, nó cất tiếng về quê hương một cách bất ngờ, hồn nhiên, thú vị.

Đây là chất thơ của đứa trẻ quê tinh tế: Cánh chuồn lặn xuống đáy ao/ Quả chuông tím phía bờ rào còn run (Nhặt ở bờ rào); Đom đóm chong đèn đêm đêm/ Hạt vừng đội đất mọc lên... cây vừng (Tháng Ba). Câu lục bát thứ hai đọc lên tưởng không có gì, một cách nói có vẻ trẻ con, hiển nhiên (hạt vừng đội đất chả mọc lên cây vừng thì là cây gì).

Người lớn thấy hiển nhiên, nhưng trong cái nhìn của trẻ thơ, chúng thấy ngạc nhiên, bỡ ngỡ, như một phát hiện. Những câu thơ như thế khiến người đọc là người lớn nhận ra cái già cỗi của mình. Câu thơ giản dị tận đáy mà không hẳn dễ làm, không dễ gì có được.

Trong chiều sâu của tâm tình cá nhân, nhà thơ Phạm Công Trứ sống với nhiều quan hệ. Khi nói lời ân tình với mẹ. Khi tâm tình với người đẹp. Khi lại quay ngược vào trong như tự thủ thỉ với chính mình.

Một câu thơ thật giản dị mà nói được những tâm sự thầm kín, cảm động của người con đối với mẹ già: Mỗi năm mẹ một thêm già/ Lưng mẹ còng xuống hiên nhà cao thêm (Quê). Thơ Phạm Công Trứ ít nói về mẹ, nhưng chỉ một câu thơ trên cũng đã có sức nặng đủ gợi lên nhiều cảm xúc ân tình, hiếu đễ của những đứa con trên mặt đất này... Có thể nói, đây là một câu thơ hay trong bảng xếp hạng những câu thơ hay viết về mẹ trong thơ Việt.

Thơ Trứ cũng như thường lệ, nói nhiều về tình yêu với nhiều cung bậc, trạng huống. Có tỏ tình. Có nhớ nhung. Có hạnh phúc. Có đổ vỡ... Nhiều câu thơ thật thông minh, thú vị. Những người trẻ hôm nay có khi vẫn mượn thơ Trứ để bày tỏ nỗi niềm. Không ít những câu thơ cất cánh bay ra khỏi chỉnh thể gốc để đi vào đời sống theo cách của những châm ngôn. Đây chính là niềm mơ ước của tất thảy những người làm thơ.

Phạm Công Trứ là một thi sĩ thực sự có được niềm hạnh phúc theo nghĩa ấy: Mắt em trong suốt thời con gái/ Trời ơi con mắt của tháng Giêng (Mùa xuân nói gì); Em đi để lại tiếng cười/ Trong tôi vỡ một khoảng trời pha lê/ Trăng vàng đêm ấy bờ đê/ Có người ngồi gỡ lời thề cỏ may (Lời thề cỏ may). Một câu thơ hay nhất thiết phải tạo ra được nỗi ngạc nhiên cho người tiếp nhận. Tài năng và cống hiến của mỗi nhà thơ chính là ở chỗ đó.

Trong mạch thơ tâm tình cá nhân, Phạm Công Trứ có không ít các câu thơ đột xuất, thường mang màu sắc chiêm nghiệm, buồn, nặng chất suy tư: Có người với ấm nhân-trần/ Ngồi Quan-Hoa-Các ngâm vần-thơ-quê (Hôm nay); Người đi kiếm cái giầu sang/ Ta về gảy khúc TRĂNG VÀNG NGÕ QUÊ (Độc huyền tự khúc).

Sinh thời, nhà nghiên cứu phê bình văn học Chu Văn Sơn hay có nhiều dịp trò chuyện cùng tôi, phần nhiều là chuyện văn chương. Tôi nhớ, có lần họ Chu nói với tôi cái ý: Mỗi nhà văn suy đến cùng phải có được cái giọng của riêng mình; có nhà văn có vẻ nổi tiếng, nhưng bảo cái giọng riêng thế nào, không thấy!... Tôi cho là họ Chu có lý.

Giọng điệu chính là cái “vân chữ” (như cách nói của nhà thơ Lê Đạt), là cái hơi cái khí, cái tông cái tạng của mỗi tác giả. Bàn luận về giọng không dễ. Có lần chính nhà thơ Phạm Công Trứ tự nhận thơ mình mang cái “giọng đùa” (Thơ đùa từ thuở sinh viên/Mười năm có lẻ còn nguyên giọng đùa - Tự sự).

Đọc thơ Phạm Công Trứ, phần lớn các bài thơ hoặc công khai hoặc bàng bạc cái sắc điệu buồn, cô độc (không phải cô đơn, thơ Trứ ít cô đơn), nhiều tự tình, ít hướng ngoại. Một số bài thơ mang giọng đùa vui, thậm chí có lúc hơi tếu táo cũng không lấn được cái sắc điệu này. Tôi gọi đó là cái giọng tự cảm ngùi ngùi, làm thành một âm điệu bao trùm trong thơ Trứ.

“Tự cảm” nên lặng lẽ, âm thầm, không ồn ào, ít nói to; “ngùi ngùi” như thầm thương bản thân mình, cái thương không đến mức than buồn, tự thán. Nó cũng không ngả về bi lụy. Người thơ này rất biết thương mình nhưng cũng rất biết tự trọng (lắm lúc tự trào), kiêu ngầm, thương mình nhưng giấu không muốn cho ai thấy... Thì ra trong thơ Trứ, cái đùa đùa chỉ là vỏ ngoài, cái tự cảm ngùi ngùi mới là cái ruột bên trong.

Về thơ Phạm Công Trứ, có nhiều cái để nói về. Thí dụ, có thể bàn về thơ lục bát Phạm Công Trứ chẳng hạn. Về chuyện này cũng đã có không ít nhận xét rồi, có cả những khen chê khác nhau. Tôi chỉ nói một ý thôi, rằng trong khi Nguyễn Duy có một lục bát của “chúng sinh” lấm láp pha chút chơi giỡn, Đồng Đức Bốn là một thứ lục bát thậm xưng, thì Phạm Công Trứ tạo ra một thứ lục bát của cái hóm- hỉnh - ngùi-ngùi. Trên hành trình lục bát đương đại Việt Nam, có ghi tên Phạm Công Trứ.

Nhân Dân hằng tháng trân trọng giới thiệu 3 bài thơ tiêu biểu của nhà thơ Phạm Công Trứ.

LỜI THỀ CỎ MAY

Làm sao quên được tuổi thơ
Tuổi vàng, tuổi ngọc - tôi ngờ lời ai

Thuở ấy tôi mới lên mười
Còn em lên bảy, theo tôi cả ngày
Quần em dệt kín cỏ may
Áo tôi đứt cúc, mực dây tím bầm
Tuổi thơ chân đất đầu trần
Từ trong lấm láp em thầm lớn lên
Thế rồi xinh đẹp là em
Em ra tỉnh học em quên một người
Cái hôm nghỉ Tết vừa rồi
Em tôi áo chẽn, em tôi quần bò
Gặp tôi, em hỏi hững hờ
“Anh chưa lấy vợ, còn chờ đợi ai?”
Em đi để lại chuỗi cười
Trong tôi vỡ một khoảng trời pha lê

Trăng vàng đêm ấy, bờ đê
Có người ngồi gỡ lời thề cỏ may...

Minh họa: NGUYỄN MINH

Minh họa: NGUYỄN MINH

NHẶT Ở BỜ RÀO

Có một chú chuồn ớt
Tớp xuống phía bờ rào
Có một thằng cu Tý
Rón rén phía đằng sau
Có một đôi bím tóc
Thấp thoáng bên kia rào
Lấp ló đôi mắt thỏ
Trưa cánh bìm thiu thiu...

*

“Chuồn chuồn có cánh thì bay...”
Tiếng cười khúc khích lung lay bờ rào
Cánh chuồn lặn xuống đáy ao
Quả chuông tím phía bờ rào còn run...

THÁNG GIÊNG

Mắt em trong suốt thời con gái
Trời ơi, con mắt của tháng giêng!

Đầu làng đang giục trống chèo
Cuối làng đang vút lên nhiều dây đu
Trai làng cờ đám, cờ vua
Già làng sửa lễ lên chùa dâng hương
Mưa xuân chẳng để ướt đường
Gió xuân vừa đủ đưa hương tóc dài
Tơ trời dăng mắc mắt nai
Đường thôn xanh đẫm một loài cỏ non...

*

Tháng giêng như gái một con
Nửa như viên mãn, nửa còn khát khao.

Có thể bạn quan tâm

Ký họa chân dung nhà thơ Nguyễn Hùng Vĩ của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

“Em đem mùa hạ rót vào mùa đông”

Những đêm mùa đông chờ Xuân, nơi căn phòng nhỏ ấm, lũ sinh viên nghèo lại quây quần quanh thầy Nguyễn Hùng Vĩ, giảng viên Khoa Ngữ văn, Trường đại học Tổng hợp Hà Nội (cũ), một ông giáo hồn hậu, quê nghèo lam lũ xứ Nghệ, luôn trọng nghĩa trọng tình.

Nhà thơ Vân Anh.

Thơ Vân Anh “mặc định nhịp trẻ”

Dễ thấy lâu nay, người viết khi cho in tuyển tập đồng nghĩa với việc gom lại, khép lại quá trình sáng tác. Nhưng cũng có người sau đó vẫn tiếp tục xuất bản tác phẩm, không phải “út, ít” bòn mót, mà là những “đứa con” bụ bẫm, khỏe mạnh, ai cũng tấm tắc, trầm trồ.

Ký họa chân dung nhà thơ Trần Hoàng Thiên Kim của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Vì yêu mà thao thức

Trần Hoàng Thiên Kim là cái tên không xa lạ với công chúng ở các lĩnh vực báo chí, truyền hình, nghiên cứu văn học hay thơ ca.

Ký họa chân dung nhà thơ Ngô Thanh Vân của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Em và phố và thơ

Ai đó đã từng nói: thơ là bản tự thuật của tâm hồn. Thật thế. Ngoài đời, con người có thể phần nào che giấu được mình, nhưng trong thơ thì không.
Ký họa chân dung nhà thơ Phùng Thị Hương Ly của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Cõng lời thương trên lưng

Nữ nhà thơ Phùng Thị Hương Ly sinh ra và lớn lên ở Bắc Kạn, người Tày, học ngành viết văn, sau ra trường làm báo, hiện sống và viết tại quê hương. Một phác thảo lai lịch như thế cho thấy hai điểm quan trọng: người thơ ấy có một vốn liếng hết sức tự nhiên, sống động về nơi chốn mình, dân tộc mình và được đào tạo bài bản trong môi trường viết.
Ký họa chân dung nhà thơ Huỳnh Thúy Kiều của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

NỒNG NÃ HƯƠNG VỊ MIỀN CHÂU THỔ CHÍN RỒNG

Nhà thơ Huỳnh Thúy Kiều sinh ra và lớn lên ở chính giữa lòng châu thổ Cửu Long. Hiện chị cũng sống và viết tại đây. Như thế, tức là cả đời “ăn chịu” quê hương, xứ sở. Như nắng như gió, như đất như cây, như điệu ca vọng cổ, thơ Huỳnh Thúy Kiều cứ thế cất lên tự nhiên, đậm hương, nồng vị và lan tỏa.
Ký họa chân dung nhà thơ Đào Quốc Minh của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Một phác thảo thơ Ðào Quốc Minh

Những năm gần đây, cái tên Đào Quốc Minh trở nên khá quen thuộc trong văn giới và bạn đọc. Anh viết và xuất bản đã có đến năm sáu tập thơ; tập gần đây nhất là “Phục sinh” (Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2024) với dung lượng khá lớn, 180 bài.
Ký họa chân dung nhà thơ Nguyễn Thị Hồng Ngát của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

“Quả thơm thì ở lại”

Người ta vẫn thường hay nói nhà thơ không có tuổi. Đó là một cách nói vui, lãng mạn, nghiêng về phía an ủi nhau. Thật ra, ai cũng vậy thôi, nhà thơ cũng như tất thảy chúng sinh, không tránh khỏi quy luật của tự nhiên. Tất thảy chúng ta già dần dần, đi theo quy luật của muôn đời: sinh, lão, bệnh, tử… không thể khác.
Ký họa chân dung nhà thơ Trần Kim Hoa của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Thơ của những ký ức cất lời

Trần Kim Hoa làm thơ dễ đã 30 năm có lẻ. Và đã ra được 3 tập thơ riêng đầy đặn, trong đó tập Bên trời gần đây nhất đã được trao Giải thưởng thường niên của Hội Nhà văn Việt nam (2020). Trong vòng ngần ấy thời gian, với 3 tập thơ, cho thấy tác giả không phải là người ham chạy theo số lượng.
Ký họa chân dung nhà thơ Đoàn Văn Mật của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

“Sáng lên từ những nhỏ nhoi”

Cho đến nay, Đoàn Văn Mật đã trình làng ba tập thơ, tập gần đây nhất là “ Ngoài mây trời đầy trống vắng ” (NXB Hội Nhà văn, 2023).
Ký họa chân dung nhà thơ Kiều Maily của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Thơ, hoa của người

Trong bài thơ mang tên “Nàng, hoa của cát” (đồng thời cũng được lấy làm tên cho tập thơ, NXB Hội nhà văn, 2019), nhà thơ Kiều Maily đã có những câu thơ như thể tự họa về mình: Nàng, hoa của cát/ yếu đuối giữa men tình/ kiêu hãnh với cô đơn/ nỗi mơ cuốn nàng về miền hạnh phúc/ Nàng, hương của đất/ chắt chiu giọt phù sa nuôi nấng đời cây/ hẹn mùa gieo hạt. Bài thơ có ba chủ thể: nàng, hoa và cát trong mối quan hệ gắn bó, ràng rịt với nhau.
Ký họa chân dung nhà thơ Trần Ngọc Mỹ của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Nhủ lòng vượt lên những phôi pha

Một người làm thơ trẻ thông thường hay lựa chọn một cách thế sống cùng, sống giữa, đồng hành với thế hệ mình và với đời sống hôm nay trong tất cả sự bề bộn, phức tạp và sống động của nó.
Ký họa chân dung nhà thơ Phạm Thị Ngọc Liên của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Phạm Thị Ngọc Liên: Người đi tìm chân dung tình yêu

Tròn 20 năm, nữ thi sĩ Phạm Thị Ngọc Liên mới trở lại thi đàn bằng tập thơ dày dặn mang tên “Trong tôi có nhiều tôi” (Nhà xuất bản Hội Nhà văn). 99 bài thơ kết thành một “con đường thơ” với biển chỉ đường là “Tình yêu”. Phải, tất cả đều là thơ Tình, của một người đàn bà hồn nhiên, đa đoan, sẵn sàng “nhắm mắt đi trên cầu thăng bằng/ nồng nàn/ liều lĩnh” để tìm cho được chân dung của Tình yêu, hay là chân dung thân phận con người.
Ký họa chân dung nhà thơ Thy Nguyên của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Thy Nguyên - Người đàn bà làm thơ buồn

Thơ gắn với buồn từ khi nào, có lẽ từ lúc thơ bắt đầu. Buồn là một phẩm chất của thơ, là một phẩm chất của đời sống con người vốn mong manh hữu hạn, nhiều bất toại hơn như ý. Người cầm bút tìm đến thơ như một cách để cất giấu, lại như một cách để phơi bày nỗi buồn trên mặt giấy. Ðể tìm kiếm một sự đồng cảm, tìm kiếm tri âm. Thy Nguyên là kiểu người làm thơ như vậy, “chơi” với buồn, và “phơi” nỗi buồn, không đắn đo giấu giếm.
Ký họa chân dung nhà thơ Nguyễn Hồng của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Thơ của những xuân thì

Nguyễn Hồng là một cái tên dường như đã quen trong đời sống văn học hiện thời. Chị khá chắc tay trong nhiều thể loại: truyện ngắn, tản văn, thơ. Riêng với thơ, chị đã cho in tập “Ví dụ anh” (2016), và đã đăng rải rác khá nhiều bài thơ lẻ trên các phương tiện truyền thông đại chúng. Một dáng vóc thơ dần được định hình...
Minh họa trang thơ: ĐẶNG TIẾN

Trang thơ

Nhân Dân hằng tháng xin giới thiệu cùng độc giả trang thơ Tết.
Ký họa chân dung nhà thơ Phùng Khắc Bắc của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường

Phùng Khắc Bắc, "Một chấm xanh"

Vào quãng năm đầu thập kỷ chín mươi của thế kỷ trước, khi đang làm nghiên cứu sinh ở Đại học Sư phạm Hà Nội, tôi thấy trong văn giới xôn xao bàn tán về một tài thơ rất lạ mới có 47 tuổi vừa mới khuất. Đó là nhà thơ Phùng Khắc Bắc, tác giả tập thơ duy nhất mang tên “Một chấm xanh” do NXB Quân đội nhân dân phát hành cuối năm 1991.
Ký họa chân dung nhà thơ Nguyễn Hoàng Sơn của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Nguyễn Hoàng Sơn, thơ viết cho thiếu nhi và...

Bạn đọc yêu thơ ngay từ thập niên 80 của thế kỷ XX đã biết đến một cây bút viết thơ cho thiếu nhi mang tên Nguyễn Hoàng Sơn. Lúc ấy, thơ viết cho thiếu nhi nổi bật nhất vẫn là một số cây bút quen thuộc, thế hệ đàn anh như Võ Quảng, Phạm Hổ, Định Hải... Cái tên Nguyễn Hoàng Sơn cùng vài cây bút thế hệ anh như Phạm Đình Ân, Trương Hữu Lợi, Mai Văn Hai... mới bắt đầu thấp thoáng.
Ký họa chân dung thi sĩ Văn Cao của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Văn Cao: "Ngày đêm làm ngọc"

Trong các ấn phẩm về thơ Văn Cao đã xuất bản, chỉ thấy chừng chưa đến mươi bài thơ được viết từ năm 1939 đến năm 1942.
Ký họa chân dung nhà thơ Nguyễn Thị Thúy Hạnh của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Nguyễn Thị Thúy Hạnh: Làm thơ, làm chữ

Trong số những nhà thơ trẻ (xuất hiện ở độ tuổi dưới 35) hiện nay, có một số cây bút rất quan tâm đến việc đổi mới thơ theo cách bắt đầu bằng việc dụng chữ, làm chữ, biến/đổi chữ. Nguyễn Thị Thúy Hạnh là một cây bút như vậy, ngay từ đầu, nhất quán và công khai tư duy về chữ, “di chữ”, “sống lời”, đã xác lập một quan niệm về thơ lấy chữ/ngôn ngữ làm trung tâm.
Ký họa chân dung nhà thơ Bạch Diệp của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường

Nỗi đồng vọng xôn xao

Quan sát những người “dính” vào chốn thơ, thấy họ làm thơ với rất nhiều động cơ khác nhau. Những động cơ ấy có khi rõ rệt, có khi mơ hồ; có khi thiết thực, có khi lại vu vơ; có thể người thơ ý thức rõ công việc mình làm, có khi cứ viết như một thôi thúc bên trong không cưỡng được...
Ký họa chân dung nhà thơ Trần Lê Khánh của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Say mê và kiên trì với thơ tối giản

Trong khoảng thời gian ngắn, nhà thơ Trần Lê Khánh công bố đều đặn mỗi năm một tập thơ. Tại NXB Hội Nhà văn: “Lục bát múa” (2016), “Dòng sông không vội” (2017), “Ngày như chiếc lá” (2018), “Giọt nắng tràn ly” (2019), “Xứ - rung một ngọn mây” (2020). Tại NXB White Pine Press (Hoa Kỳ): “The beginning of water”. Một gia tài thi ca đáng kể, ít ra là về mặt số/ khối lượng.
Minh họa trang thơ: Nguyễn Quang Thiều

Ở phía ấy...

NGUYỄN PHONG VIỆT

Ở phía ấy là mùi hương và hơi ấm ruộng vườn...