Nhà thơ & Bài thơ hay

Văn Cao: "Ngày đêm làm ngọc"

Trong các ấn phẩm về thơ Văn Cao đã xuất bản, chỉ thấy chừng chưa đến mươi bài thơ được viết từ năm 1939 đến năm 1942.
Ký họa chân dung thi sĩ Văn Cao của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.
Ký họa chân dung thi sĩ Văn Cao của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Đa số các bài thơ này ghi lại những tâm tình cá nhân buồn nhớ vẩn vơ xa vắng, như những phiên bản không mấy thành công của phong trào Thơ mới lúc bấy giờ. Do sự chuyển đổi thời thế, những biến động dữ dội của thời cuộc: nạn đói 1945, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã lay động tâm hồn thi sĩ. Lúc này, nhà thơ đã cất lên những vần thơ chất chứa nỗi niềm nhân thế. “Chiếc xe xác qua phường Dạ lạc” mang tính xã hội sâu sắc, ghi lại nỗi đau của dân chúng trong cảnh chết đói thê lương. “Ngoại ô mùa đông 46” (in trên Văn nghệ số 2, tháng 4-5 năm 1948) như tiếp nối bài thơ trước nói về một Hà Nội đau thương vùng lên kháng chiến, cùng với đó là những đổi thay và hy vọng.

Phải chờ đến 8 năm sau, Văn Cao mới trở lại với thơ và công bố bài thơ “Anh có nghe không” (được viết ngày 1/10/1956) và ngay sau đó là một trường ca xuất sắc “Những người trên cửa biển”. Từ đây, toàn bộ các sáng tác thơ được viết thưa thớt qua các năm, cho tới tận mấy năm đầu thập niên 90 thế kỷ 20 cho thấy Văn Cao đã rút hẳn vào trong thế giới nội cảm, ưu tư nhân thế và thân thế. Tôi cho rằng, các sáng tạo thơ giai đoạn sau trong hành trình thơ Văn Cao là một thứ thơ “chấn thương”, như là hệ quả trực tiếp của một trạng thái chấn thương tinh thần trong kiếp sống trần ai của nghệ sĩ. Nó như thể những “Tiếng kêu của một khúc thép đỏ/trong chậu nước” (“Cạn”, viết ngày 10/8 - 1/9/1958).

Khác với người thường không có phương tiện giải ẩn ức chấn thương, đối với các nhà văn đã trải qua chấn thương, như một cửa thoát, họ thường trút vào cái viết. Văn Cao, dường như ông không chối bỏ, cũng ít phục hồi chấn thương đã trải, mà phần lớn chấp nhận chấn thương và vượt lên nó. Thi phẩm “Khuôn mặt em” là một áng thơ tình được viết năm 1974: “Giữa những ngày dằng dặc/Chỉ còn khuôn mặt em/Sáng trong và bình lặng”. Câu thơ mở đầu dựng lên một tình thế mà thơ đang nếm trải. Hai câu thơ kết của toàn bài như một xác quyết: “Ôi khuôn mặt sáng trong và bình lặng/Tôi được đầu tiên và còn lại cuối cùng”. Thì ra, toàn bộ đời sống của nhà thơ lúc này chỉ có một giá trị cao nhất, thiêng liêng nhất là “Khuôn mặt em”, là tình yêu. Hai câu thơ thật giản dị mà đẹp, gợi, do nó chân thực và cốt lõi... Chùm ba bài thơ viết về Quy Nhơn, bài nào cũng hay, mỗi bài hay một cách. Có một điều tuy không lạ, nhưng nhiều khi vẫn khiến ta bỡ ngỡ: ở những nhà thơ tầm vóc, trong mỗi thi phẩm, bằng một cách tự nhiên nhất, thơ của họ luôn có một sự kết hợp hòa quyện giữa tâm tình công dân và tâm tình cá nhân, giữa tính xã hội và tính nhân bản, giữa ngôn từ nghệ thuật và chiều sâu tư tưởng. Một câu thơ “Từ trời xanh/rơi/vài giọt tháp Chàm” được bố trí theo hình thơ vắt dòng bậc thang gợi lên một cách sống động về không gian thị giác và sự chuyển động của vũ trụ. Nhưng tiếp theo đó là những liên tưởng về lịch sử xưa và nay, xa và gần, để dựng lên một xác quyết bi tráng: “Không/đất này mọc lên/từ/nước mắt!...”.

Tôi muốn nói đến trường hợp nữa: thi phẩm Thời gian, được viết vào “Xuân Đinh Mão, 2/1987”. Bài thơ này ra đời sau ca khúc “Mùa xuân đầu tiên” vào dịp Tết của năm 1976. Bài thơ giữ một mạch cảm xúc trầm tĩnh, đan cài giữa cảm niệm về sự chảy trôi của thời gian đời người, thời gian vũ trụ và cái còn lại là những bài hát, những câu thơ, “Và đôi mắt em/như hai giếng nước”- sự hiện hữu bất tử của Cái Đẹp. Một bài thơ như thế có thể nằm ngoài quy luật của sự băng hoại. Vết thương ở những thi sĩ lớn nhiều khi lại là nơi trổ lên những bông hoa lộng lẫy.

Văn Cao hóa giải dính mắc, đón nhận đời sống với một tinh thần từ ái khoan dung. Nhờ vậy, thơ ông là một thứ thơ chấn thương “sáng trong và bình lặng”. Hầu hết các bài thơ của ông, cho dù bắt đầu khởi lên bằng một nỗi buồn khổ, cuối bài bao giờ cũng chồi lên hy vọng, một thứ hy vọng trầm tĩnh, như mong cầu, như tin tưởng. Nếu như bên trên tự ví “Tiếng kêu ở trong tôi/Có xót xa có cả vui mừng/Tiếng kêu của một khúc thép đỏ/Trong chậu nước” thì ngay ở phần cuối bài là “Những tiếng hát đuổi nhau trên các ngọn núi/Còn lại một hồ nước/Trên họng một ngọn núi cạn lửa” (Cạn). Thật lớn lao và kiêu hãnh cái hồ nước bi tráng và trữ tình ấy. Hình ảnh hồ nước sau cùng đã trở về với cảm quan “sáng trong và bình lặng”.

Thơ Văn Cao từ “Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc” trở đi được viết hoàn toàn bằng thể điệu tự do. Thơ ông là thơ của sức nghĩ, của sự liên tưởng rộng và sâu, của kỷ luật kiệm và nén chữ, nên những thể thơ cách luật sẽ trở nên vướng víu, không thể đáp ứng. Chỉ có thơ tự do với tinh thần tự do mới có thể đủ sức chứa nổi một kích cỡ tâm hồn Văn Cao biển cả.

Một trong những đặc tính của thơ: càng nén chặt, càng bùng nổ. Muốn nén, cô đúc, kiệm chữ chỉ có hai cách: đi vào thơ có tứ và thơ mang tính triết luận. Thơ có tứ luôn hút toàn bộ câu chữ và thi ảnh vào chung quanh nó, nên nó kiểm soát được tính cần thiết và tính vừa đủ, không bị miên man nhiều lời. Thơ triết luận nghiêng về xây dựng các tương quan hình và tương quan ý, nên cũng không cần/không thể nhiều lời. Văn Cao chú trọng cả hai và dường như đều là sở trường.

Một nốt son nữa ở thơ Văn Cao là tính họa như một thế mạnh trong con người nghệ sĩ đã được trưng dụng. Cái tài năng đáng nể của Văn Cao ở chỗ ông đã làm hội họa bằng ngôn từ. “Trên đường đi/Anh đặt em trên đồng cỏ/Thấy đẹp mãi màu xanh của cỏ// Trên đường đi/Anh đặt em trên dốc núi/Để tìm lại những đường mềm của núi//Trên đường đi/Khuôn mặt em làm giếng/Để anh tìm làm đáy ngọc châu” (Khuôn mặt em). Các câu thơ dựng lên những khuôn hình khác nhau, ở tâm cảnh là người nữ, người nữ này như thể tác động vào không gian, làm đẹp cho không gian. Người đẹp có quyền năng làm cho thế giới này đẹp lên theo.

Trong một hình dung tuyệt đẹp của thi nhân, mảnh đất Quy Nhơn hiện lên như một nửa hình con trai “Vẫn ngày đêm lấp lánh/mang vết thương xưa/ngày đêm làm ngọc”. Tôi cũng muốn hình dung về thân phận người nghệ sĩ tài năng Văn Cao giống như thân phận con trai bền bỉ, đau đớn và kiêu hãnh suốt đời kết nên những viên ngọc trai tuyệt thế trong nền thơ, âm nhạc và hội họa Việt Nam.

Nhân Dân hằng tháng trân trọng giới thiệu hai bài thơ tiêu biểu của thi sĩ Văn Cao

THỜI GIAN

Thời gian qua kẽ tay
Làm khô những chiếc lá
Kỷ niệm trong tôi
Rơi
như tiếng sỏi
trong lòng giếng cạn.

Riêng những câu thơ
còn xanh
Riêng những bài hát
còn xanh
Và đôi mắt em
như hai giếng nước.

Xuân Đinh Mão, 2-1987

Minh họa | NGUYỄN MINH

Minh họa | NGUYỄN MINH

KHUÔN MẶT EM

Giữa những ngày dằng dặc
Chỉ còn khuôn mặt em
Sáng trong và bình lặng

Dù hai đứa chúng ta
Chưa lúc nào sung sướng
Những ngày đau khổ ấy
Khuôn mặt em
Như mảnh trăng những đêm rừng cháy

Trên đường đi
Anh đặt em trên đồng cỏ
Thấy đẹp mãi màu xanh cỏ dại

Trên đường đi
Anh đặt em trên dốc núi
Ðể tìm lại những đường mềm của núi

Trên đường đi
Khuôn mặt em làm giếng
Ðể anh tìm làm đáy ngọc châu

Ôi khuôn mặt sáng trong và bình lặng
Tôi được đầu tiên và còn lại cuối cùng.

1974

Có thể bạn quan tâm

Ký họa chân dung nhà thơ Vi Thùy Linh của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Vi Thùy Linh và hành trình vượt lên chính mình

Tính từ bài thơ đầu tiên viết năm 15 tuổi (tháng 9/1995), sau này được đưa vào tập thơ đầu tay (Khát, NXB Hội Nhà văn, 1999), Vi Thùy Linh đã có một hành trình sáng tác 30 năm với 7 tập thơ. 30 năm trôi đi gắn với bao đổi thay, biến động trong đời sống, thiếu nữ Vi Thùy Linh đã là bà mẹ hai con.

Ký họa chân dung nhà thơ Trần Nhật Minh của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Trần Nhật Minh - Thơ và những cuộc du chơi

Đã từng làm việc ở Ban Văn học - Nghệ thuật - Âm nhạc, Đài Tiếng nói Việt Nam, Trần Nhật Minh quen biết, giao du với nhiều văn nghệ sĩ. Minh không chơi thì thôi, đã chơi thì luôn hết lòng với bạn.

Ký họa chân dung nhà thơ Nguyễn Hùng Vĩ của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

“Em đem mùa hạ rót vào mùa đông”

Những đêm mùa đông chờ Xuân, nơi căn phòng nhỏ ấm, lũ sinh viên nghèo lại quây quần quanh thầy Nguyễn Hùng Vĩ, giảng viên Khoa Ngữ văn, Trường đại học Tổng hợp Hà Nội (cũ), một ông giáo hồn hậu, quê nghèo lam lũ xứ Nghệ, luôn trọng nghĩa trọng tình.

Nhà thơ Vân Anh.

Thơ Vân Anh “mặc định nhịp trẻ”

Dễ thấy lâu nay, người viết khi cho in tuyển tập đồng nghĩa với việc gom lại, khép lại quá trình sáng tác. Nhưng cũng có người sau đó vẫn tiếp tục xuất bản tác phẩm, không phải “út, ít” bòn mót, mà là những “đứa con” bụ bẫm, khỏe mạnh, ai cũng tấm tắc, trầm trồ.

Ký họa chân dung nhà thơ Trần Hoàng Thiên Kim của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Vì yêu mà thao thức

Trần Hoàng Thiên Kim là cái tên không xa lạ với công chúng ở các lĩnh vực báo chí, truyền hình, nghiên cứu văn học hay thơ ca.

Ký họa chân dung nhà thơ Ngô Thanh Vân của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Em và phố và thơ

Ai đó đã từng nói: thơ là bản tự thuật của tâm hồn. Thật thế. Ngoài đời, con người có thể phần nào che giấu được mình, nhưng trong thơ thì không.
Ký họa chân dung nhà thơ Phùng Thị Hương Ly của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Cõng lời thương trên lưng

Nữ nhà thơ Phùng Thị Hương Ly sinh ra và lớn lên ở Bắc Kạn, người Tày, học ngành viết văn, sau ra trường làm báo, hiện sống và viết tại quê hương. Một phác thảo lai lịch như thế cho thấy hai điểm quan trọng: người thơ ấy có một vốn liếng hết sức tự nhiên, sống động về nơi chốn mình, dân tộc mình và được đào tạo bài bản trong môi trường viết.
Ký họa chân dung nhà thơ Huỳnh Thúy Kiều của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

NỒNG NÃ HƯƠNG VỊ MIỀN CHÂU THỔ CHÍN RỒNG

Nhà thơ Huỳnh Thúy Kiều sinh ra và lớn lên ở chính giữa lòng châu thổ Cửu Long. Hiện chị cũng sống và viết tại đây. Như thế, tức là cả đời “ăn chịu” quê hương, xứ sở. Như nắng như gió, như đất như cây, như điệu ca vọng cổ, thơ Huỳnh Thúy Kiều cứ thế cất lên tự nhiên, đậm hương, nồng vị và lan tỏa.
Ký họa chân dung nhà thơ Đào Quốc Minh của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Một phác thảo thơ Ðào Quốc Minh

Những năm gần đây, cái tên Đào Quốc Minh trở nên khá quen thuộc trong văn giới và bạn đọc. Anh viết và xuất bản đã có đến năm sáu tập thơ; tập gần đây nhất là “Phục sinh” (Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2024) với dung lượng khá lớn, 180 bài.
Ký họa chân dung nhà thơ Nguyễn Thị Hồng Ngát của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

“Quả thơm thì ở lại”

Người ta vẫn thường hay nói nhà thơ không có tuổi. Đó là một cách nói vui, lãng mạn, nghiêng về phía an ủi nhau. Thật ra, ai cũng vậy thôi, nhà thơ cũng như tất thảy chúng sinh, không tránh khỏi quy luật của tự nhiên. Tất thảy chúng ta già dần dần, đi theo quy luật của muôn đời: sinh, lão, bệnh, tử… không thể khác.
Ký họa chân dung nhà thơ Trần Kim Hoa của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Thơ của những ký ức cất lời

Trần Kim Hoa làm thơ dễ đã 30 năm có lẻ. Và đã ra được 3 tập thơ riêng đầy đặn, trong đó tập Bên trời gần đây nhất đã được trao Giải thưởng thường niên của Hội Nhà văn Việt nam (2020). Trong vòng ngần ấy thời gian, với 3 tập thơ, cho thấy tác giả không phải là người ham chạy theo số lượng.
Ký họa chân dung nhà thơ Đoàn Văn Mật của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

“Sáng lên từ những nhỏ nhoi”

Cho đến nay, Đoàn Văn Mật đã trình làng ba tập thơ, tập gần đây nhất là “ Ngoài mây trời đầy trống vắng ” (NXB Hội Nhà văn, 2023).
Ký họa chân dung nhà thơ Kiều Maily của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Thơ, hoa của người

Trong bài thơ mang tên “Nàng, hoa của cát” (đồng thời cũng được lấy làm tên cho tập thơ, NXB Hội nhà văn, 2019), nhà thơ Kiều Maily đã có những câu thơ như thể tự họa về mình: Nàng, hoa của cát/ yếu đuối giữa men tình/ kiêu hãnh với cô đơn/ nỗi mơ cuốn nàng về miền hạnh phúc/ Nàng, hương của đất/ chắt chiu giọt phù sa nuôi nấng đời cây/ hẹn mùa gieo hạt. Bài thơ có ba chủ thể: nàng, hoa và cát trong mối quan hệ gắn bó, ràng rịt với nhau.
Ký họa chân dung nhà thơ Trần Ngọc Mỹ của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Nhủ lòng vượt lên những phôi pha

Một người làm thơ trẻ thông thường hay lựa chọn một cách thế sống cùng, sống giữa, đồng hành với thế hệ mình và với đời sống hôm nay trong tất cả sự bề bộn, phức tạp và sống động của nó.
Ký họa chân dung nhà thơ Phạm Thị Ngọc Liên của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Phạm Thị Ngọc Liên: Người đi tìm chân dung tình yêu

Tròn 20 năm, nữ thi sĩ Phạm Thị Ngọc Liên mới trở lại thi đàn bằng tập thơ dày dặn mang tên “Trong tôi có nhiều tôi” (Nhà xuất bản Hội Nhà văn). 99 bài thơ kết thành một “con đường thơ” với biển chỉ đường là “Tình yêu”. Phải, tất cả đều là thơ Tình, của một người đàn bà hồn nhiên, đa đoan, sẵn sàng “nhắm mắt đi trên cầu thăng bằng/ nồng nàn/ liều lĩnh” để tìm cho được chân dung của Tình yêu, hay là chân dung thân phận con người.
Ký họa chân dung nhà thơ Thy Nguyên của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Thy Nguyên - Người đàn bà làm thơ buồn

Thơ gắn với buồn từ khi nào, có lẽ từ lúc thơ bắt đầu. Buồn là một phẩm chất của thơ, là một phẩm chất của đời sống con người vốn mong manh hữu hạn, nhiều bất toại hơn như ý. Người cầm bút tìm đến thơ như một cách để cất giấu, lại như một cách để phơi bày nỗi buồn trên mặt giấy. Ðể tìm kiếm một sự đồng cảm, tìm kiếm tri âm. Thy Nguyên là kiểu người làm thơ như vậy, “chơi” với buồn, và “phơi” nỗi buồn, không đắn đo giấu giếm.
Ký họa chân dung nhà thơ Nguyễn Hồng của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Thơ của những xuân thì

Nguyễn Hồng là một cái tên dường như đã quen trong đời sống văn học hiện thời. Chị khá chắc tay trong nhiều thể loại: truyện ngắn, tản văn, thơ. Riêng với thơ, chị đã cho in tập “Ví dụ anh” (2016), và đã đăng rải rác khá nhiều bài thơ lẻ trên các phương tiện truyền thông đại chúng. Một dáng vóc thơ dần được định hình...
Minh họa trang thơ: ĐẶNG TIẾN

Trang thơ

Nhân Dân hằng tháng xin giới thiệu cùng độc giả trang thơ Tết.
Ký họa chân dung nhà thơ Phùng Khắc Bắc của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường

Phùng Khắc Bắc, "Một chấm xanh"

Vào quãng năm đầu thập kỷ chín mươi của thế kỷ trước, khi đang làm nghiên cứu sinh ở Đại học Sư phạm Hà Nội, tôi thấy trong văn giới xôn xao bàn tán về một tài thơ rất lạ mới có 47 tuổi vừa mới khuất. Đó là nhà thơ Phùng Khắc Bắc, tác giả tập thơ duy nhất mang tên “Một chấm xanh” do NXB Quân đội nhân dân phát hành cuối năm 1991.
Ký họa chân dung nhà thơ Nguyễn Hoàng Sơn của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Nguyễn Hoàng Sơn, thơ viết cho thiếu nhi và...

Bạn đọc yêu thơ ngay từ thập niên 80 của thế kỷ XX đã biết đến một cây bút viết thơ cho thiếu nhi mang tên Nguyễn Hoàng Sơn. Lúc ấy, thơ viết cho thiếu nhi nổi bật nhất vẫn là một số cây bút quen thuộc, thế hệ đàn anh như Võ Quảng, Phạm Hổ, Định Hải... Cái tên Nguyễn Hoàng Sơn cùng vài cây bút thế hệ anh như Phạm Đình Ân, Trương Hữu Lợi, Mai Văn Hai... mới bắt đầu thấp thoáng.
Ký họa chân dung nhà thơ Nguyễn Thị Thúy Hạnh của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Nguyễn Thị Thúy Hạnh: Làm thơ, làm chữ

Trong số những nhà thơ trẻ (xuất hiện ở độ tuổi dưới 35) hiện nay, có một số cây bút rất quan tâm đến việc đổi mới thơ theo cách bắt đầu bằng việc dụng chữ, làm chữ, biến/đổi chữ. Nguyễn Thị Thúy Hạnh là một cây bút như vậy, ngay từ đầu, nhất quán và công khai tư duy về chữ, “di chữ”, “sống lời”, đã xác lập một quan niệm về thơ lấy chữ/ngôn ngữ làm trung tâm.
Ký họa chân dung nhà thơ Phạm Công Trứ của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Nhà thơ Phạm Công Trứ: Tựa vào những câu thơ hay

Trong truyền thống, nhất là với thơ trung đại, người đọc thơ thường hay chú ý đến những câu chữ được coi là tuyệt bút trong bài: những “nhãn tự”, “thần cú”... Cách nhìn này, khi bước sang văn học hiện đại vẫn được chú ý, nhưng không còn là duy nhất, cuối cùng.
Ký họa chân dung nhà thơ Bạch Diệp của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường

Nỗi đồng vọng xôn xao

Quan sát những người “dính” vào chốn thơ, thấy họ làm thơ với rất nhiều động cơ khác nhau. Những động cơ ấy có khi rõ rệt, có khi mơ hồ; có khi thiết thực, có khi lại vu vơ; có thể người thơ ý thức rõ công việc mình làm, có khi cứ viết như một thôi thúc bên trong không cưỡng được...
Ký họa chân dung nhà thơ Trần Lê Khánh của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Say mê và kiên trì với thơ tối giản

Trong khoảng thời gian ngắn, nhà thơ Trần Lê Khánh công bố đều đặn mỗi năm một tập thơ. Tại NXB Hội Nhà văn: “Lục bát múa” (2016), “Dòng sông không vội” (2017), “Ngày như chiếc lá” (2018), “Giọt nắng tràn ly” (2019), “Xứ - rung một ngọn mây” (2020). Tại NXB White Pine Press (Hoa Kỳ): “The beginning of water”. Một gia tài thi ca đáng kể, ít ra là về mặt số/ khối lượng.