Nhà thơ & Bài thơ hay

Nỗi đau đời “cứa vào trái tim thi nhân, nhả ngọc thi ca”

Vân Anh là một nữ thi sĩ thành danh ở xứ Nghệ, với một hành trình thơ hơn nửa thế kỷ.

Nhà thơ Vân Anh.
Nhà thơ Vân Anh.

Chị là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hội viên Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Nghệ An, Chi hội phó Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Nghệ An, Chủ nhiệm Câu lạc bộ Phụ nữ với văn học nghệ thuật. Chị cũng là nhà giáo dạy chuyên văn có nhiều đóng góp cho ngành giáo dục xứ Nghệ.

Vân Anh làm thơ từ hồi còn ở Phuống, năm 1969 và đến nay đã công bố 17 tác phẩm gồm thơ, văn, tiểu luận, phê bình…, trong đó có 9 tập thơ. Nhà thơ Vân Anh đã được trao tặng nhiều giải thưởng văn chương như Giải thưởng sáng tác về biển đảo Hội Nhà văn Việt Nam (năm 2020), Giải thưởng & tặng thưởng của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các hội Văn học nghệ thuật Việt Nam (2006, 2011), Giải thưởng cuộc thi sáng tác và quảng bá tác phẩm văn học nghệ thuật theo chủ đề “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” (năm 2008, 2010, 2013, 2019, 2022), Giải thưởng Hồ Xuân Hương (các năm 2002, 2010, 2015)...

Có người cho rằng, thơ Vân Anh trước hết định vị “căn cước Nghệ”. Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều nhận xét: “Vân Anh đã đi xuyên qua chặng đường dài với những riêng tư trong sâu thẳm tâm hồn nhưng hòa cùng số phận của đồng loại, của dân tộc và cụ thể hơn số phận một vùng đất đặc biệt về mọi nghĩa: Xứ Nghệ” (1). Xứ Nghệ hiện lên trong thơ Vân Anh như một vùng quê nhiều gian khó nhưng cũng là mảnh đất thiêng, chứa đựng nhiều trầm tích lịch sử, văn hóa, là nơi chị sinh ra, lớn lên và nguyện gắn bó trọn đời: Xứ Nghệ/Cho tôi câu thơ quăng quật kiếp người/Những đứa trẻ đẻ rơi/Co ro trên luống cày/vừa xới hình hài cong dấu hỏi/ òa nỗi đau chào đời”; “Bao hiền tài được vỏ thời gian cất giữ trầm hương/Giữa bầu trời giông bão vô thường/Người Xứ Nghệ - chim Phượng Hoàng bốn phương sải cánh/Nếu có kiếp sau/Ta lại về Xứ Nghệ đầu thai” (Xứ Nghệ). Gắn liền với cảm xúc về xứ Nghệ là cảm xúc về văn hóa, về văn chương, về các danh nhân, thi sĩ xứ Nghệ (Hiền nhân hiển thánh, Lỗi nhịp nhân gian, Vọng lời thi nhân, Tưởng nhớ thi nhân…). Không phải ngẫu nhiên mà điệu ví giặm thường được chị nhắc đến, bởi “Hồn ví giặm chở ta về quá vãng/Câu đò đưa lắng ngọt vị hồn quê”; “Lở bồi con thuyền ví giặm đầy vơi/Chở mai sau cập về nơi cội nguồn”...

Chiếm một tỷ lệ đáng kể trong thơ Vân Anh là mảng thơ tình, thơ suy ngẫm về “phận đàn bà” được nhiều bạn đọc xem là đặc sản của thơ chị. Nhiều câu thơ đắng chát về nỗi buồn, cô đơn, về tình yêu và “phận đàn bà”: “Nhịp cô đơn mưng mủ trái tim gầy/Ta đang đợi tri âm mai sau hò hẹn (Lạc loài); Khi cả trời sao đã thành góa bụa/Ta chít khăn tang khát vọng thời xa (Ngộ giác). Thơ tình của chị đã đi trọn mọi cung bậc cảm xúc hiện sinh của một người phụ nữ, từ “cuồng say, hoang dã, giữa đời” đến “khát khao”, “dâng hiến”, đã tột cùng hạnh phúc và rồi cũng tận cùng thất vọng, đớn đau. Vân Anh tự vẽ chân dung mình: “Trái tim cô đơn từ muôn kiếp trước/Tâm hồn khao khát đến muôn kiếp sau/Đa tình bẩm sinh trong máu/Khâu buồn làm áo che thân” (Chân dung tự họa). Chị hay nói về những “lạc lối”, những “rối quẫn” giữa đời, những “lỗi nhịp” trong tình yêu mà sai lầm thường là xuất phát từ “trái tim đàn bà”: Mẹ dạy con chín mươi chín điều hay/Điều thứ một trăm không dạy nổi/Trái tim đàn bà/hễ đi là... lạc lối (Nhớ mẹ).

Thơ Vân Anh cũng có một mảng thơ mang màu sắc thế sự, thể hiện những trăn trở đầy trách nhiệm công dân trước cuộc đời (Lời ru mùa đại dịch, Nhân dân gọi các anh về, Lời hẹn ước của người lính biên phòng, Dấu chân tuần tra…). Trong thơ, chị cố gắng đi tìm, gom nhặt những gì còn lại của tình người, của giá trị nhân văn giữa bao biến động của xã hội. Và với chị, cuộc đời đã nhiều nỗi đau thì nhà thơ phải là người trước hết biết cảm thông, chia sẻ, góp phần xoa dịu những nỗi đau ấy. Nghe tin em học sinh bị mất vì bạo lực học đường, chị viết:“Vắt giọt thương từ trái tim làm mẹ/Vắt giọt sẻ chia từ trái tim thi sĩ/Vắt giọt ăn năn của lương tri/Dâng Em/Vần thơ ứa giọt đau buồn!”.

Hành trình thơ của Vân Anh là luôn tự làm mới mình bằng trải nghiệm, từ đó mà có những tìm tòi đổi mới trong đề tài, hình ảnh, ngôn ngữ và phương thức biểu đạt. Thơ chị đằm sâu tính triết lý, chiêm nghiệm nhưng không khô khan mà thể hiện sinh động qua những hình ảnh, câu chữ đầy ấn tượng. Những vần thơ hay nhất của chị bật lên từ sự gắn kết giữa trái tim đa cảm, đam mê, dễ xúc động và một chiều sâu hướng nội, với những suy tư, chiêm nghiệm về lẽ đời, được mất, về cái đẹp, về giá trị cuộc sống giữa dòng trôi chảy tàn phá của thời gian. Với chị, thơ ca là sự kết nối giữa thân phận tác giả và trách nhiệm cộng đồng. Khi nói về nỗi đau thi nhân, chị viết: Nỗi đau mưu sinh, nỗi đau chiến tranh/ cứa vào trái tim thi nhân, nhả ngọc thi ca (Trầm tích lịch sử). Đó là quan niệm thơ và cũng là điều đọng lại ở nhiều bài thơ của Vân Anh.

______

(1) Nguyễn Quang Thiều, “Trên một con đường thơ”, Vân Anh tuyển tập thơ, Nxb Nghệ An, 2023.

Nhân Dân hằng tháng trân trọng giới thiệu 2 bài thơ tiêu biểu của nhà thơ Vân Anh

ĐÀN BÀ

Là nước

Đàn bà đẩy con thuyền công danh đàn ông

sang bên kia bờ khát vọng.

Là nước

Đàn bà nhấn con thuyền công danh đàn ông

chìm đáy đại dương tuyệt vọng.

Là nước

Đàn bà tự vỗ sóng

cho mình và cho nhau.

Là nước

Đàn bà mạch nguồn vô tận

Tình thương con tuôn chảy vĩnh hằng.

309367454411619000.jpg
Minh họa | Nguyễn Minh

XỨ NGHỆ

Xứ Nghệ...

Gió Lào hất tung bãi cát sang bờ Bắc sông Lam

Sông Lam dải lụa xanh

đọng phù sa thái âm mát lành Địa Linh,

dòng đời trong đục thắt ngang lở bồi.

Con thuyền ví giặm đầy vơi

Chở mai sau cập về nơi cội nguồn.

Chín chín ngọn Hồng Lĩnh nén linh khí thái dương

miên viễn mùa xanh Nhân Kiệt.

Xứ Nghệ...

Đại thi hào Nguyễn Du

Bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương

Nơi hai dòng chảy Văn Chương dân dã, bác học hợp lưu.

Nơi chưng cất tinh túy cốt cách Cụ Đồ

thẳng ngay thuở khai thiên thông reo Ngàn Hống

Miên miết mạch ngầm hiếu học xưa xửa dòng Rum.

Xứ Nghệ...

Cho tôi câu thơ quăng quật kiếp người.

Những đứa trẻ đẻ rơi, co ro trên luống cày vừa xới

hình hài cong dấu hỏi, òa nỗi đau chào đời.

Những người đàn bà góa, cô đơn thiêu đốt thịt da

đổ lúa ra xay, đổ trấu ra xay, xay cạn đêm...

Cháy dọc mùa đông trằn trọc lửa củi sim sưởi ấm giấc mơ

người đàn ông lực điền, bát cơm không độn sắn, ngô.

Xứ Nghệ

Nơi di chỉ cất bảo tàng chiếc muôi múc canh bằng đá,

vá nhọc nhằn, tằn tiện của Tiền Nhân.

Xứ Nghệ

Đứa con nghèo của Người Mẹ Thiên Nhiên

Đất phên dậu che chắn đông, tây, rừng, biển,

trấn giữ ra Bắc vào Nam, dẻo dai như đòn gánh,

gánh hai đầu Đất Nước.

Giọng nặng chịch, nết ăn ở mặn mòi vị muối

Trái tim nồng, gừng năm tháng lại thêm cay.

Thuở dân Việt loay hoay trong ngôi nhà hình chữ S

Những Phan Sào Nam, những Nguyễn Tất Thành

đã cồn cào cơn khát lái con thuyền dân tộc vượt khơi xa...

Năm tháng đọng trầm tích một nền Văn Hóa

Bao Hiền Tài được vỏ thời gian cất giữ trầm hương.

Giữa bầu trời giông bão vô thường

Người Xứ Nghệ - chim Phượng Hoàng bốn phương sải cánh.

Nếu có kiếp sau

Ta lại về Xứ Nghệ đầu thai.

Có thể bạn quan tâm

Ký họa chân dung nhà thơ Vi Thùy Linh của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Vi Thùy Linh và hành trình vượt lên chính mình

Tính từ bài thơ đầu tiên viết năm 15 tuổi (tháng 9/1995), sau này được đưa vào tập thơ đầu tay (Khát, NXB Hội Nhà văn, 1999), Vi Thùy Linh đã có một hành trình sáng tác 30 năm với 7 tập thơ. 30 năm trôi đi gắn với bao đổi thay, biến động trong đời sống, thiếu nữ Vi Thùy Linh đã là bà mẹ hai con.

Ký họa chân dung nhà thơ Trần Nhật Minh của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Trần Nhật Minh - Thơ và những cuộc du chơi

Đã từng làm việc ở Ban Văn học - Nghệ thuật - Âm nhạc, Đài Tiếng nói Việt Nam, Trần Nhật Minh quen biết, giao du với nhiều văn nghệ sĩ. Minh không chơi thì thôi, đã chơi thì luôn hết lòng với bạn.

Ký họa chân dung nhà thơ Nguyễn Hùng Vĩ của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

“Em đem mùa hạ rót vào mùa đông”

Những đêm mùa đông chờ Xuân, nơi căn phòng nhỏ ấm, lũ sinh viên nghèo lại quây quần quanh thầy Nguyễn Hùng Vĩ, giảng viên Khoa Ngữ văn, Trường đại học Tổng hợp Hà Nội (cũ), một ông giáo hồn hậu, quê nghèo lam lũ xứ Nghệ, luôn trọng nghĩa trọng tình.

Nhà thơ Vân Anh.

Thơ Vân Anh “mặc định nhịp trẻ”

Dễ thấy lâu nay, người viết khi cho in tuyển tập đồng nghĩa với việc gom lại, khép lại quá trình sáng tác. Nhưng cũng có người sau đó vẫn tiếp tục xuất bản tác phẩm, không phải “út, ít” bòn mót, mà là những “đứa con” bụ bẫm, khỏe mạnh, ai cũng tấm tắc, trầm trồ.

Ký họa chân dung nhà thơ Trần Hoàng Thiên Kim của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Vì yêu mà thao thức

Trần Hoàng Thiên Kim là cái tên không xa lạ với công chúng ở các lĩnh vực báo chí, truyền hình, nghiên cứu văn học hay thơ ca.

Ký họa chân dung nhà thơ Ngô Thanh Vân của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Em và phố và thơ

Ai đó đã từng nói: thơ là bản tự thuật của tâm hồn. Thật thế. Ngoài đời, con người có thể phần nào che giấu được mình, nhưng trong thơ thì không.
Ký họa chân dung nhà thơ Phùng Thị Hương Ly của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Cõng lời thương trên lưng

Nữ nhà thơ Phùng Thị Hương Ly sinh ra và lớn lên ở Bắc Kạn, người Tày, học ngành viết văn, sau ra trường làm báo, hiện sống và viết tại quê hương. Một phác thảo lai lịch như thế cho thấy hai điểm quan trọng: người thơ ấy có một vốn liếng hết sức tự nhiên, sống động về nơi chốn mình, dân tộc mình và được đào tạo bài bản trong môi trường viết.
Ký họa chân dung nhà thơ Huỳnh Thúy Kiều của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

NỒNG NÃ HƯƠNG VỊ MIỀN CHÂU THỔ CHÍN RỒNG

Nhà thơ Huỳnh Thúy Kiều sinh ra và lớn lên ở chính giữa lòng châu thổ Cửu Long. Hiện chị cũng sống và viết tại đây. Như thế, tức là cả đời “ăn chịu” quê hương, xứ sở. Như nắng như gió, như đất như cây, như điệu ca vọng cổ, thơ Huỳnh Thúy Kiều cứ thế cất lên tự nhiên, đậm hương, nồng vị và lan tỏa.
Ký họa chân dung nhà thơ Đào Quốc Minh của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Một phác thảo thơ Ðào Quốc Minh

Những năm gần đây, cái tên Đào Quốc Minh trở nên khá quen thuộc trong văn giới và bạn đọc. Anh viết và xuất bản đã có đến năm sáu tập thơ; tập gần đây nhất là “Phục sinh” (Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2024) với dung lượng khá lớn, 180 bài.
Ký họa chân dung nhà thơ Nguyễn Thị Hồng Ngát của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

“Quả thơm thì ở lại”

Người ta vẫn thường hay nói nhà thơ không có tuổi. Đó là một cách nói vui, lãng mạn, nghiêng về phía an ủi nhau. Thật ra, ai cũng vậy thôi, nhà thơ cũng như tất thảy chúng sinh, không tránh khỏi quy luật của tự nhiên. Tất thảy chúng ta già dần dần, đi theo quy luật của muôn đời: sinh, lão, bệnh, tử… không thể khác.
Ký họa chân dung nhà thơ Trần Kim Hoa của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Thơ của những ký ức cất lời

Trần Kim Hoa làm thơ dễ đã 30 năm có lẻ. Và đã ra được 3 tập thơ riêng đầy đặn, trong đó tập Bên trời gần đây nhất đã được trao Giải thưởng thường niên của Hội Nhà văn Việt nam (2020). Trong vòng ngần ấy thời gian, với 3 tập thơ, cho thấy tác giả không phải là người ham chạy theo số lượng.
Ký họa chân dung nhà thơ Đoàn Văn Mật của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

“Sáng lên từ những nhỏ nhoi”

Cho đến nay, Đoàn Văn Mật đã trình làng ba tập thơ, tập gần đây nhất là “ Ngoài mây trời đầy trống vắng ” (NXB Hội Nhà văn, 2023).
Ký họa chân dung nhà thơ Kiều Maily của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Thơ, hoa của người

Trong bài thơ mang tên “Nàng, hoa của cát” (đồng thời cũng được lấy làm tên cho tập thơ, NXB Hội nhà văn, 2019), nhà thơ Kiều Maily đã có những câu thơ như thể tự họa về mình: Nàng, hoa của cát/ yếu đuối giữa men tình/ kiêu hãnh với cô đơn/ nỗi mơ cuốn nàng về miền hạnh phúc/ Nàng, hương của đất/ chắt chiu giọt phù sa nuôi nấng đời cây/ hẹn mùa gieo hạt. Bài thơ có ba chủ thể: nàng, hoa và cát trong mối quan hệ gắn bó, ràng rịt với nhau.
Ký họa chân dung nhà thơ Trần Ngọc Mỹ của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Nhủ lòng vượt lên những phôi pha

Một người làm thơ trẻ thông thường hay lựa chọn một cách thế sống cùng, sống giữa, đồng hành với thế hệ mình và với đời sống hôm nay trong tất cả sự bề bộn, phức tạp và sống động của nó.
Ký họa chân dung nhà thơ Phạm Thị Ngọc Liên của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Phạm Thị Ngọc Liên: Người đi tìm chân dung tình yêu

Tròn 20 năm, nữ thi sĩ Phạm Thị Ngọc Liên mới trở lại thi đàn bằng tập thơ dày dặn mang tên “Trong tôi có nhiều tôi” (Nhà xuất bản Hội Nhà văn). 99 bài thơ kết thành một “con đường thơ” với biển chỉ đường là “Tình yêu”. Phải, tất cả đều là thơ Tình, của một người đàn bà hồn nhiên, đa đoan, sẵn sàng “nhắm mắt đi trên cầu thăng bằng/ nồng nàn/ liều lĩnh” để tìm cho được chân dung của Tình yêu, hay là chân dung thân phận con người.
Ký họa chân dung nhà thơ Thy Nguyên của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Thy Nguyên - Người đàn bà làm thơ buồn

Thơ gắn với buồn từ khi nào, có lẽ từ lúc thơ bắt đầu. Buồn là một phẩm chất của thơ, là một phẩm chất của đời sống con người vốn mong manh hữu hạn, nhiều bất toại hơn như ý. Người cầm bút tìm đến thơ như một cách để cất giấu, lại như một cách để phơi bày nỗi buồn trên mặt giấy. Ðể tìm kiếm một sự đồng cảm, tìm kiếm tri âm. Thy Nguyên là kiểu người làm thơ như vậy, “chơi” với buồn, và “phơi” nỗi buồn, không đắn đo giấu giếm.
Ký họa chân dung nhà thơ Nguyễn Hồng của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Thơ của những xuân thì

Nguyễn Hồng là một cái tên dường như đã quen trong đời sống văn học hiện thời. Chị khá chắc tay trong nhiều thể loại: truyện ngắn, tản văn, thơ. Riêng với thơ, chị đã cho in tập “Ví dụ anh” (2016), và đã đăng rải rác khá nhiều bài thơ lẻ trên các phương tiện truyền thông đại chúng. Một dáng vóc thơ dần được định hình...
Minh họa trang thơ: ĐẶNG TIẾN

Trang thơ

Nhân Dân hằng tháng xin giới thiệu cùng độc giả trang thơ Tết.
Ký họa chân dung nhà thơ Phùng Khắc Bắc của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường

Phùng Khắc Bắc, "Một chấm xanh"

Vào quãng năm đầu thập kỷ chín mươi của thế kỷ trước, khi đang làm nghiên cứu sinh ở Đại học Sư phạm Hà Nội, tôi thấy trong văn giới xôn xao bàn tán về một tài thơ rất lạ mới có 47 tuổi vừa mới khuất. Đó là nhà thơ Phùng Khắc Bắc, tác giả tập thơ duy nhất mang tên “Một chấm xanh” do NXB Quân đội nhân dân phát hành cuối năm 1991.
Ký họa chân dung nhà thơ Nguyễn Hoàng Sơn của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Nguyễn Hoàng Sơn, thơ viết cho thiếu nhi và...

Bạn đọc yêu thơ ngay từ thập niên 80 của thế kỷ XX đã biết đến một cây bút viết thơ cho thiếu nhi mang tên Nguyễn Hoàng Sơn. Lúc ấy, thơ viết cho thiếu nhi nổi bật nhất vẫn là một số cây bút quen thuộc, thế hệ đàn anh như Võ Quảng, Phạm Hổ, Định Hải... Cái tên Nguyễn Hoàng Sơn cùng vài cây bút thế hệ anh như Phạm Đình Ân, Trương Hữu Lợi, Mai Văn Hai... mới bắt đầu thấp thoáng.
Ký họa chân dung thi sĩ Văn Cao của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Văn Cao: "Ngày đêm làm ngọc"

Trong các ấn phẩm về thơ Văn Cao đã xuất bản, chỉ thấy chừng chưa đến mươi bài thơ được viết từ năm 1939 đến năm 1942.
Ký họa chân dung nhà thơ Nguyễn Thị Thúy Hạnh của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Nguyễn Thị Thúy Hạnh: Làm thơ, làm chữ

Trong số những nhà thơ trẻ (xuất hiện ở độ tuổi dưới 35) hiện nay, có một số cây bút rất quan tâm đến việc đổi mới thơ theo cách bắt đầu bằng việc dụng chữ, làm chữ, biến/đổi chữ. Nguyễn Thị Thúy Hạnh là một cây bút như vậy, ngay từ đầu, nhất quán và công khai tư duy về chữ, “di chữ”, “sống lời”, đã xác lập một quan niệm về thơ lấy chữ/ngôn ngữ làm trung tâm.
Ký họa chân dung nhà thơ Phạm Công Trứ của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Nhà thơ Phạm Công Trứ: Tựa vào những câu thơ hay

Trong truyền thống, nhất là với thơ trung đại, người đọc thơ thường hay chú ý đến những câu chữ được coi là tuyệt bút trong bài: những “nhãn tự”, “thần cú”... Cách nhìn này, khi bước sang văn học hiện đại vẫn được chú ý, nhưng không còn là duy nhất, cuối cùng.
Ký họa chân dung nhà thơ Bạch Diệp của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường

Nỗi đồng vọng xôn xao

Quan sát những người “dính” vào chốn thơ, thấy họ làm thơ với rất nhiều động cơ khác nhau. Những động cơ ấy có khi rõ rệt, có khi mơ hồ; có khi thiết thực, có khi lại vu vơ; có thể người thơ ý thức rõ công việc mình làm, có khi cứ viết như một thôi thúc bên trong không cưỡng được...