Nhà thơ & Bài thơ hay

Một phác thảo thơ Ðào Quốc Minh

Những năm gần đây, cái tên Đào Quốc Minh trở nên khá quen thuộc trong văn giới và bạn đọc. Anh viết và xuất bản đã có đến năm sáu tập thơ; tập gần đây nhất là “Phục sinh” (Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2024) với dung lượng khá lớn, 180 bài.
Ký họa chân dung nhà thơ Đào Quốc Minh của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.
Ký họa chân dung nhà thơ Đào Quốc Minh của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Ở một bài thơ nào đó, tự nhiên tôi bắt gặp một câu thơ tưởng như rất tình cờ, nhưng dường như nói được phần nào về thế giới thơ của Đào Quốc Minh: “trong tưởng tượng xưa cũ của tôi”. Vâng, thơ anh toàn là những tưởng tượng về một thế giới xưa cũ, xa xôi, một thời đã qua rất lâu rồi, một thời đang tiêu trầm, phai tàn song vẫn hắt lên những tia hồi quang lặng lẽ, mơ hồ và đôi khi chói rực.

Đó là thế giới của một không gian xa xôi với những cánh rừng mùa thu phương bắc, những cánh đồng hoang vu xa rộng, những chiến địa xa xăm; thế giới của những người nô lệ da đen, của những đàn ngựa chiến hoặc ngựa trời trong tưởng tượng, những người lính già nua, của những người đàn bà tong teo bên song cửa, những ngôi nhà thờ vắng lặng, của những bãi biển trống vắng, những thiếu nữ mơ mộng trong rừng: “em nhảy múa và hát bài đồng dao/về một loài thiên mã/từng bay theo ánh chiều/vàng vọt phương nam” (Bài đồng dao về một loài thiên mã); “một nhà thơ được sinh ra/để hát về ngàn mưa mây cồn núi nhạn” (Áp thấp nhiệt đới)... Đó là những không gian 4 chiều: dài, rộng và cao; cộng với chiều thứ tư - chiều của tâm linh.

Không gian thì thế. Thời gian trong thơ Minh cũng toàn những đại lượng lớn, mấy ngàn năm, một ngàn năm, một trăm năm, nhiều năm, nhiều mùa, nhiều thế kỷ, nhiều đời người... Đào Quốc Minh không quan tâm tới thời gian vật lý, thời gian thực tại. Người thơ chìm đắm vào không gian hồi tưởng, không gian tưởng tượng xa xưa, xa khuất. Anh hướng vào thời gian vĩnh cửu. Những đại lượng thời gian lớn như vậy chất chứa cái thế giới vĩnh hằng, những linh hồn bất tử: “đã mấy ngàn năm/chỉ còn lại cánh cò trắng/và cây đàn góa phụ.../ngủ yên trên đồng hoang vu” (Ngôi sao băng); “chỉ còn một dây đàn/vắt ngang mùa-thu-cũ” (Một dây đàn)... Thơ Minh có vô số những câu thơ nói về thời gian vĩnh cửu với những không gian vĩnh hằng như thế.

Trong cảm thức của thi sĩ, cho dù luôn hướng về thế giới của những chiều kích to lớn và lắm khi rất mơ hồ như vậy, lạ thay luôn hiển hiện những CON MẮT với nhiều trạng thái khác nhau, trong nhiều cảnh huống khác nhau. Đây là đôi mắt trẻ thơ: “thấy những đứa trẻ con/mang đôi mắt màu tro/ngày nào buồn bã” (Soi bóng bên sông); “đôi mắt trong buồn bã/nhìn về mấy bức tường/vàng ửng đang sụp đổ/dưới chân đồi” (Bức tường vàng ửng). Kia là đôi mắt của người con gái áo xanh từ 20 năm trước: “ngước đôi mắt vàng vọt/thẫn thờ nhìn về bầu trời” (Vàng vọt); của cô gái “ngồi trên bậc thềm rêu phong/khép đôi mắt hanh khô/cánh đồng hoa cải” (Mười lăm vầng trăng thu)... Nhà thơ có hẳn một bài thơ cực ngắn theo hình thức vắt dòng mang tên “Đôi mắt”: “nỗi buồn/trong veo.../và chói lọi...”. Có thể nói, trong thơ Đào Quốc Minh đầy rẫy hình ảnh những đôi mắt đủ các trạng thái trong không/ thời gian khác nhau, và về cơ bản đó là đôi mắt tâm linh, mang tính hồi nhớ và tưởng tượng. Như một thương tích nội tâm. Như một ám ảnh.

Hình như có một nhất quán ở đây. Không phải ngẫu nhiên mà hình ảnh đôi mắt lại xuất hiện dày đặc như vậy. Một khi đã mang ý hướng chiếm lĩnh không gian lớn thì tất nhiên phải quan sát nó, bao chiếm nó từ mọi hướng nhìn, từ xa nhìn lại, từ trên cao nhìn xuống, từ phía dưới nhìn lên, từ phía sau phía trước, từ nhìn thẳng nhìn chéo nhìn nghiêng.... Cũng vậy, muốn chiếm lĩnh thời gian vĩnh cửu, muốn dọi cái nhìn vào quá khứ xa xăm, thì chỉ có con mắt tâm linh mới giúp thực hiện được. Đào Quốc Minh đã thiết lập một thế giới nghệ thuật thuộc thì quá khứ, với không/thời gian của cái vĩnh hằng/vĩnh cửu, ở đó hiện lên hình ảnh đôi mắt - cái nhìn xuyên thấu, nghiêng về tâm linh. Đến cả đồ vật, những thứ tưởng như vô tri, ấy thế mà trong thi cảm của nhà thơ vẫn có đôi mắt ẩn chìm trú ngụ: “chiếc lọ hoa gốm/vẫn lặng lẽ trên bàn/nhiều năm qua/chỉ còn lại/con mắt gốm/im lìm/và một cánh hoa/khô lạnh” (Chiếc lọ gốm).

Anh có những câu thơ khiến người đọc không khỏi thảng thốt: “giật mình/một tiếng/hú vang//đã bao nhiêu kiếp/người hoang.../giữa người...” (Người hoang). Trong một thế giới trống vắng, miên viễn như thế, chỉ khi các con mắt biết tìm nhau, đồng cảm và thấu hiểu thì thế giới này mới đủ ấm, đủ yêu thương.

Thơ Đào Quốc Minh giữ một khoảng cách đối với các vấn đề thế sự hoặc thời gian thực tại. Hay nói đúng hơn, đây đó những tiếng vọng của chiến tranh, cái chết, sinh thái cũng có mặt trong thơ anh như những liên tưởng, gợi nhắc. Thơ anh chủ yếu hướng về những “tưởng tượng xưa cũ”, trong đó ánh lên những điêu tàn và những vàng son, những cái chết và sự sống, những khổ đau và hạnh phúc... Triệu hồi quá vãng và mở về phía trước. Đó là một kiểu thơ để gợi và dẫn người đọc đi về những chân trời xa khuất của xưa/nay.

Nhân Dân hằng tháng trân trọng giới thiệu chùm thơ tiêu biểu của nhà thơ Đào Quốc Minh

Sông Hương

em sinh ra từ xứ Bắc trong ký ức…
về dòng sông chỉ còn lại một người đàn bà
ngồi đếm từng hạt phúc bồn tử
màu đỏ tươi trong tiếng phong cầm
mùa thu vẫn gìn giữ nỗi buồn
trong chiếc rương đầy lá thông vàng cũ kỹ
câu chuyện không lời về cái bóng
bên ngọn bấc đèn dầu và hạt nước mắt không ngủ
đã ngàn năm nối tiếp những đời người
đã nhấn chìm - con đò - cũ - cô đơn
ngoài kia một buổi mai - như hạt sương thấm
vào tờ lịch ố vàng tháng chín
em lặng lẽ - trên triền đồi trắng lạnh
bỗng nghe đâu đây…
trên bến cũ - Hương Giang
khoan nhặt điệu Nam Bình.

Minh họa: NGUYỄN MINH

Minh họa: NGUYỄN MINH

Đồi hoa quế trắng

nàng mệt mỏi
ngồi trên đỉnh đồi
để mặc hơi ẩm
nhè nhẹ phả vào thân thể
buồn thảm trong vắt
xõa mái tóc đầy hoa quế trắng...
tận không trung vi vút
những tiếng én thiên di gọi bạn đời
nàng mở đôi mắt
u trầm hun hút gió
trân trân nhìn
về phía chân mây...

Chiếc lọ gốm

chiếc lọ hoa gốm
anh dành tặng, riêng em
chiếc lọ hoa gốm
vẫn lặng lẽ trên bàn
nhiều năm qua
chỉ còn lại
con mắt gốm
im lìm
và một cánh hoa
khô lạnh.

Có thể bạn quan tâm

Ký họa chân dung nhà thơ Vi Thùy Linh của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Vi Thùy Linh và hành trình vượt lên chính mình

Tính từ bài thơ đầu tiên viết năm 15 tuổi (tháng 9/1995), sau này được đưa vào tập thơ đầu tay (Khát, NXB Hội Nhà văn, 1999), Vi Thùy Linh đã có một hành trình sáng tác 30 năm với 7 tập thơ. 30 năm trôi đi gắn với bao đổi thay, biến động trong đời sống, thiếu nữ Vi Thùy Linh đã là bà mẹ hai con.

Ký họa chân dung nhà thơ Trần Nhật Minh của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Trần Nhật Minh - Thơ và những cuộc du chơi

Đã từng làm việc ở Ban Văn học - Nghệ thuật - Âm nhạc, Đài Tiếng nói Việt Nam, Trần Nhật Minh quen biết, giao du với nhiều văn nghệ sĩ. Minh không chơi thì thôi, đã chơi thì luôn hết lòng với bạn.

Ký họa chân dung nhà thơ Nguyễn Hùng Vĩ của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

“Em đem mùa hạ rót vào mùa đông”

Những đêm mùa đông chờ Xuân, nơi căn phòng nhỏ ấm, lũ sinh viên nghèo lại quây quần quanh thầy Nguyễn Hùng Vĩ, giảng viên Khoa Ngữ văn, Trường đại học Tổng hợp Hà Nội (cũ), một ông giáo hồn hậu, quê nghèo lam lũ xứ Nghệ, luôn trọng nghĩa trọng tình.

Nhà thơ Vân Anh.

Thơ Vân Anh “mặc định nhịp trẻ”

Dễ thấy lâu nay, người viết khi cho in tuyển tập đồng nghĩa với việc gom lại, khép lại quá trình sáng tác. Nhưng cũng có người sau đó vẫn tiếp tục xuất bản tác phẩm, không phải “út, ít” bòn mót, mà là những “đứa con” bụ bẫm, khỏe mạnh, ai cũng tấm tắc, trầm trồ.

Ký họa chân dung nhà thơ Trần Hoàng Thiên Kim của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Vì yêu mà thao thức

Trần Hoàng Thiên Kim là cái tên không xa lạ với công chúng ở các lĩnh vực báo chí, truyền hình, nghiên cứu văn học hay thơ ca.

Ký họa chân dung nhà thơ Ngô Thanh Vân của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Em và phố và thơ

Ai đó đã từng nói: thơ là bản tự thuật của tâm hồn. Thật thế. Ngoài đời, con người có thể phần nào che giấu được mình, nhưng trong thơ thì không.
Ký họa chân dung nhà thơ Phùng Thị Hương Ly của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Cõng lời thương trên lưng

Nữ nhà thơ Phùng Thị Hương Ly sinh ra và lớn lên ở Bắc Kạn, người Tày, học ngành viết văn, sau ra trường làm báo, hiện sống và viết tại quê hương. Một phác thảo lai lịch như thế cho thấy hai điểm quan trọng: người thơ ấy có một vốn liếng hết sức tự nhiên, sống động về nơi chốn mình, dân tộc mình và được đào tạo bài bản trong môi trường viết.
Ký họa chân dung nhà thơ Huỳnh Thúy Kiều của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

NỒNG NÃ HƯƠNG VỊ MIỀN CHÂU THỔ CHÍN RỒNG

Nhà thơ Huỳnh Thúy Kiều sinh ra và lớn lên ở chính giữa lòng châu thổ Cửu Long. Hiện chị cũng sống và viết tại đây. Như thế, tức là cả đời “ăn chịu” quê hương, xứ sở. Như nắng như gió, như đất như cây, như điệu ca vọng cổ, thơ Huỳnh Thúy Kiều cứ thế cất lên tự nhiên, đậm hương, nồng vị và lan tỏa.
Ký họa chân dung nhà thơ Nguyễn Thị Hồng Ngát của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

“Quả thơm thì ở lại”

Người ta vẫn thường hay nói nhà thơ không có tuổi. Đó là một cách nói vui, lãng mạn, nghiêng về phía an ủi nhau. Thật ra, ai cũng vậy thôi, nhà thơ cũng như tất thảy chúng sinh, không tránh khỏi quy luật của tự nhiên. Tất thảy chúng ta già dần dần, đi theo quy luật của muôn đời: sinh, lão, bệnh, tử… không thể khác.
Ký họa chân dung nhà thơ Trần Kim Hoa của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Thơ của những ký ức cất lời

Trần Kim Hoa làm thơ dễ đã 30 năm có lẻ. Và đã ra được 3 tập thơ riêng đầy đặn, trong đó tập Bên trời gần đây nhất đã được trao Giải thưởng thường niên của Hội Nhà văn Việt nam (2020). Trong vòng ngần ấy thời gian, với 3 tập thơ, cho thấy tác giả không phải là người ham chạy theo số lượng.
Ký họa chân dung nhà thơ Đoàn Văn Mật của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

“Sáng lên từ những nhỏ nhoi”

Cho đến nay, Đoàn Văn Mật đã trình làng ba tập thơ, tập gần đây nhất là “ Ngoài mây trời đầy trống vắng ” (NXB Hội Nhà văn, 2023).
Ký họa chân dung nhà thơ Kiều Maily của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Thơ, hoa của người

Trong bài thơ mang tên “Nàng, hoa của cát” (đồng thời cũng được lấy làm tên cho tập thơ, NXB Hội nhà văn, 2019), nhà thơ Kiều Maily đã có những câu thơ như thể tự họa về mình: Nàng, hoa của cát/ yếu đuối giữa men tình/ kiêu hãnh với cô đơn/ nỗi mơ cuốn nàng về miền hạnh phúc/ Nàng, hương của đất/ chắt chiu giọt phù sa nuôi nấng đời cây/ hẹn mùa gieo hạt. Bài thơ có ba chủ thể: nàng, hoa và cát trong mối quan hệ gắn bó, ràng rịt với nhau.
Ký họa chân dung nhà thơ Trần Ngọc Mỹ của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Nhủ lòng vượt lên những phôi pha

Một người làm thơ trẻ thông thường hay lựa chọn một cách thế sống cùng, sống giữa, đồng hành với thế hệ mình và với đời sống hôm nay trong tất cả sự bề bộn, phức tạp và sống động của nó.
Ký họa chân dung nhà thơ Phạm Thị Ngọc Liên của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Phạm Thị Ngọc Liên: Người đi tìm chân dung tình yêu

Tròn 20 năm, nữ thi sĩ Phạm Thị Ngọc Liên mới trở lại thi đàn bằng tập thơ dày dặn mang tên “Trong tôi có nhiều tôi” (Nhà xuất bản Hội Nhà văn). 99 bài thơ kết thành một “con đường thơ” với biển chỉ đường là “Tình yêu”. Phải, tất cả đều là thơ Tình, của một người đàn bà hồn nhiên, đa đoan, sẵn sàng “nhắm mắt đi trên cầu thăng bằng/ nồng nàn/ liều lĩnh” để tìm cho được chân dung của Tình yêu, hay là chân dung thân phận con người.
Ký họa chân dung nhà thơ Thy Nguyên của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Thy Nguyên - Người đàn bà làm thơ buồn

Thơ gắn với buồn từ khi nào, có lẽ từ lúc thơ bắt đầu. Buồn là một phẩm chất của thơ, là một phẩm chất của đời sống con người vốn mong manh hữu hạn, nhiều bất toại hơn như ý. Người cầm bút tìm đến thơ như một cách để cất giấu, lại như một cách để phơi bày nỗi buồn trên mặt giấy. Ðể tìm kiếm một sự đồng cảm, tìm kiếm tri âm. Thy Nguyên là kiểu người làm thơ như vậy, “chơi” với buồn, và “phơi” nỗi buồn, không đắn đo giấu giếm.
Ký họa chân dung nhà thơ Nguyễn Hồng của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Thơ của những xuân thì

Nguyễn Hồng là một cái tên dường như đã quen trong đời sống văn học hiện thời. Chị khá chắc tay trong nhiều thể loại: truyện ngắn, tản văn, thơ. Riêng với thơ, chị đã cho in tập “Ví dụ anh” (2016), và đã đăng rải rác khá nhiều bài thơ lẻ trên các phương tiện truyền thông đại chúng. Một dáng vóc thơ dần được định hình...
Minh họa trang thơ: ĐẶNG TIẾN

Trang thơ

Nhân Dân hằng tháng xin giới thiệu cùng độc giả trang thơ Tết.
Ký họa chân dung nhà thơ Phùng Khắc Bắc của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường

Phùng Khắc Bắc, "Một chấm xanh"

Vào quãng năm đầu thập kỷ chín mươi của thế kỷ trước, khi đang làm nghiên cứu sinh ở Đại học Sư phạm Hà Nội, tôi thấy trong văn giới xôn xao bàn tán về một tài thơ rất lạ mới có 47 tuổi vừa mới khuất. Đó là nhà thơ Phùng Khắc Bắc, tác giả tập thơ duy nhất mang tên “Một chấm xanh” do NXB Quân đội nhân dân phát hành cuối năm 1991.
Ký họa chân dung nhà thơ Nguyễn Hoàng Sơn của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Nguyễn Hoàng Sơn, thơ viết cho thiếu nhi và...

Bạn đọc yêu thơ ngay từ thập niên 80 của thế kỷ XX đã biết đến một cây bút viết thơ cho thiếu nhi mang tên Nguyễn Hoàng Sơn. Lúc ấy, thơ viết cho thiếu nhi nổi bật nhất vẫn là một số cây bút quen thuộc, thế hệ đàn anh như Võ Quảng, Phạm Hổ, Định Hải... Cái tên Nguyễn Hoàng Sơn cùng vài cây bút thế hệ anh như Phạm Đình Ân, Trương Hữu Lợi, Mai Văn Hai... mới bắt đầu thấp thoáng.
Ký họa chân dung thi sĩ Văn Cao của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Văn Cao: "Ngày đêm làm ngọc"

Trong các ấn phẩm về thơ Văn Cao đã xuất bản, chỉ thấy chừng chưa đến mươi bài thơ được viết từ năm 1939 đến năm 1942.
Ký họa chân dung nhà thơ Nguyễn Thị Thúy Hạnh của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Nguyễn Thị Thúy Hạnh: Làm thơ, làm chữ

Trong số những nhà thơ trẻ (xuất hiện ở độ tuổi dưới 35) hiện nay, có một số cây bút rất quan tâm đến việc đổi mới thơ theo cách bắt đầu bằng việc dụng chữ, làm chữ, biến/đổi chữ. Nguyễn Thị Thúy Hạnh là một cây bút như vậy, ngay từ đầu, nhất quán và công khai tư duy về chữ, “di chữ”, “sống lời”, đã xác lập một quan niệm về thơ lấy chữ/ngôn ngữ làm trung tâm.
Ký họa chân dung nhà thơ Phạm Công Trứ của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Nhà thơ Phạm Công Trứ: Tựa vào những câu thơ hay

Trong truyền thống, nhất là với thơ trung đại, người đọc thơ thường hay chú ý đến những câu chữ được coi là tuyệt bút trong bài: những “nhãn tự”, “thần cú”... Cách nhìn này, khi bước sang văn học hiện đại vẫn được chú ý, nhưng không còn là duy nhất, cuối cùng.
Ký họa chân dung nhà thơ Bạch Diệp của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường

Nỗi đồng vọng xôn xao

Quan sát những người “dính” vào chốn thơ, thấy họ làm thơ với rất nhiều động cơ khác nhau. Những động cơ ấy có khi rõ rệt, có khi mơ hồ; có khi thiết thực, có khi lại vu vơ; có thể người thơ ý thức rõ công việc mình làm, có khi cứ viết như một thôi thúc bên trong không cưỡng được...
Ký họa chân dung nhà thơ Trần Lê Khánh của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Say mê và kiên trì với thơ tối giản

Trong khoảng thời gian ngắn, nhà thơ Trần Lê Khánh công bố đều đặn mỗi năm một tập thơ. Tại NXB Hội Nhà văn: “Lục bát múa” (2016), “Dòng sông không vội” (2017), “Ngày như chiếc lá” (2018), “Giọt nắng tràn ly” (2019), “Xứ - rung một ngọn mây” (2020). Tại NXB White Pine Press (Hoa Kỳ): “The beginning of water”. Một gia tài thi ca đáng kể, ít ra là về mặt số/ khối lượng.