Nhà thơ & Bài thơ hay

Thơ, hoa của người

Trong bài thơ mang tên “Nàng, hoa của cát” (đồng thời cũng được lấy làm tên cho tập thơ, NXB Hội nhà văn, 2019), nhà thơ Kiều Maily đã có những câu thơ như thể tự họa về mình: Nàng, hoa của cát/ yếu đuối giữa men tình/ kiêu hãnh với cô đơn/ nỗi mơ cuốn nàng về miền hạnh phúc/ Nàng, hương của đất/ chắt chiu giọt phù sa nuôi nấng đời cây/ hẹn mùa gieo hạt. Bài thơ có ba chủ thể: nàng, hoa và cát trong mối quan hệ gắn bó, ràng rịt với nhau.
Ký họa chân dung nhà thơ Kiều Maily của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.
Ký họa chân dung nhà thơ Kiều Maily của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Nàng chính là hoa của cát (tựa như trong văn hóa truyền khẩu của dân tộc Việt “Người ta là hoa đất”), được sinh ra từ cát, được nuôi nấng, trưởng thành, kết tinh để nở thành hoa; bông hoa ấy thơm hương thắm sắc nhờ cát, đất mẹ. Nàng là hoa. Nàng và hoa là một, trở thành nhất thể. Cả hai cùng hiện thân cho Cái đẹp của thế giới này.

Chính vì thế, nhân vật trữ tình tự tin và kiêu hãnh thấy mình là Apsara, em và Apsara cũng trong nhau, làm một và là một: Apsara/ người là ai Apsara/ mà thở trong em thức/ trong em múa trong em/ điệu diễm ảo cao hơn giấc mộng/ Đường cong thân nàng hay đường cong thân em/ Apsara/ môi người cười hay em đang mỉm cười Apsara/ Có phải nàng là em Apsara/ hay em là nàng/ Apsara? Thần vũ nữ Apsara là một cổ mẫu biểu trưng cho vẻ đẹp toàn bích về nhan sắc và nghệ thuật trong văn hóa Hindu. Cổ mẫu đi vào thơ hiện đại như một dòng chảy tự nhiên mà nữ thi sĩ thuộc về. Apsara cũng là hoa của cát. Nhà thơ đã kéo nữ thần về với trần thế, mang vẻ đẹp trần thế, sống đời trần thế: Thoát bóng nữ thần/ cởi xiêm áo cung đình chật/ em chân trần làm tình nhân mặt đất/ múa vũ điệu con người. Trong cảm quan của chủ thể trữ tình, được sống tận độ với trần thế này chính là hạnh phúc.

Nếu hình ảnh “đất” như một thực thể tự nhiên mang tính khái quát, thì đến Kiều Maily đất mang dạng thức “cát” - một chất liệu cụ thể hơn, đặc trưng hơn, bản địa hơn, thuộc xứ sở Chăm. Cát chính là điều kiện địa lý tự nhiên của dải đất miền Nam Trung Bộ. Nhưng cát đi vào trong thơ Kiều Maily có thêm những nét nghĩa khác. Cát là nơi khởi sinh sự sống, khởi sinh con người. Cát cũng là nơi nhận về những tử biệt sinh ly. Cát cũng là gió (gió cát), là nắng. Đồi cát, sa mạc cát vừa là không gian vật lý, vừa là một không gian tinh thần. Trong thi cảm của Kiều Maily, cát tượng trưng cho một quê hương khắc nghiệt, kham nhẫn, chở che và kiêu hãnh.

Chính vì thế, nữ thi sĩ này lúc nào cũng nặng lòng với nơi chốn quê hương. Hình ảnh những đồi cát miên man, những cây xương rồng khẳng khiu, những bầy cừu, bầy dê táo tác, những đứa trẻ nghèo, những thiên tai và nhân tai luôn rình rập. Trên cái phong cảnh chung đó, xuất hiện một không gian làng, “palei” theo cách gọi Chăm, được trở đi trở lại trong thơ Kiều Maily với một mức độ dày đặc. Palei hiện lên trong rất nhiều cảnh huống, màu sắc, khi xa khi gần, khi trực tiếp khi hồi nhớ. Đó là những con mương đực mương cái - ẩn dụ về sự sống tươi tốt lứa đôi. Đó là những lễ hội, tiếng trống, điệu múa. Thấp thoáng những tập tục, trang phục, những nếp sinh hoạt hiện lên (mộ đá Chăm, áo dài Chăm; người đàn bà đội lu nước, làm gốm...). Nữ thi sĩ có những câu thơ xuất sắc về người mẹ Chăm: Mẹ đã xoay vòng nặng một màu chàm/ chỉ trong vài giờ/ vừa xoay mẹ vừa già/ Vậy mà đã xa (Nhớ dáng Palei). Là công việc mưu sinh đấy. Nhưng cũng là sự sống bản địa. Một cảm thức về thời gian trôi, sự sống lưu chuyển. Những câu thơ gợi chiều sâu của những kiếp người, của palei Chăm hiện tại và miên viễn...

Xuyên suốt các tập thơ, chủ thể trữ tình đã tự “tố cáo” mình như một kẻ luôn lên đường và trở về. Lên đường để đi về “hướng mở” (như cách nói của nhà thơ đồng hương Inrasara). Lên đường mở ra đất nước. Lên đường mở ra với năm châu. Trở về để nương tựa, thụ nạp dưỡng chất quê hương. Chính vì thế, thơ của Kiều Maily hiện đại ngay từ đầu mà cũng dân tộc ngay từ đầu. Dân tộc tính trong dáng vẻ hiện đại.

Điều này trước hết thuộc về cảm thức thơ ca. Kiều Maily sống trong và sống cùng toàn bộ đời sống này cả với hiện tại và quá khứ, ở palei của mình và ở các không gian khác trên mọi miền đất nước, yêu thương và sống chết với mỗi nơi chốn đi đến và trở về, tất cả đều đắm đuối và cả những xa xót chúng sinh. Phải có một tấm lòng nhiều rung cảm, rộng rãi, phóng khoáng, vô phân biệt mới có được nguồn thi cảm giàu có, phong nhiêu như thế. Thơ Kiều Maily chan chứa sự sống.

Thơ chị cũng dám biểu tỏ một cách bạo dạn những cảm giác có tính nhục cảm của con người khi yêu một cách trẻ, đẹp và thiêng. Điều này có được là nhờ nội lực mỹ cảm tinh tế của nhà thơ: anh sẽ hóa kiếp/ nhiều/ nhiều lần hơn/ để được/ ngồi cà phê bên em chiều nay/ để/ hôn tóc em mắt em môi em vòm ngực em/ như chúng mình đang/ chiều nay/ mãi mãi. Đôi câu thơ thật đẹp dưới đây, có vẻ tiết chế hơn, nhưng cũng thật chất chứa: Anh là một vệt sáng buồn/ bước vào đời em làm giông gió. Thì ra, người nữ ở đâu khi yêu chẳng đắm say.

Thêm nữa, Kiều Maily chủ trương chọn thể thơ tự do (mặc dù chị có làm thơ lục bát, rất ít), một thể thơ cho phép người làm thơ thoát khỏi một số khuôn mẫu gò bó về vần, chữ, nhịp, đăng đối... để được “co duỗi” thoải mái miễn sao phù hợp với cảm xúc và ý tưởng riêng. Với thơ Kiều Maily, người đọc không bị làm khó ở thể thơ, câu chữ, mà có lẽ chính là ở hệ thống hình ảnh thuộc về văn hóa Chăm, như những ký hiệu hàm nghĩa. Có lẽ đây là một điều kiện đối với người đọc khi tiếp nhận các thi phẩm của nữ thi sĩ này.

Tôi cho rằng, thơ Kiều Maily rất Chăm mà hiện đại. Kiều Maily là một trong số không nhiều các nhà thơ dân tộc ít người đã nhập vào hải lưu thơ Việt Nam hiện đại có xu hướng giao lưu quốc tế. “Nàng, hoa của cát”. Với nữ sĩ Kiều Maily, có thể nói thơ chị chính là Thơ, hoa của người.

Nhân Dân hằng tháng trân trọng giới thiệu hai bài thơ tiêu biểu của nhà thơ Kiều Maily

KHÚC THEI MAI GIỮA SÀI GÒN

Loài dế lạc bầy cuối vườn chuối kêu chưa thôi
tiếng kêu tìm bạn tình, có lẽ

Khúc dân ca đầu hôm ai bỏ dở nửa chừng
âm vang lửng lơ trong gió
làm thức giấc mơ hoang

Trên lưng bò còn vương mấy cọng rạ
lũ dê đã về chuồng
dường nắng Phan Rang vừa tắt

Người mẹ kiên nhẫn mót những nhánh lúa sót lại cuối cùng
khi chiều đã nhuộm thẫm áo chàm
dáng người đi như nhớ

Anh là một vệt sáng buồn
bước vào đời em làm giông gió

Gác trọ Sài Gòn ai hát khúc Thei mai *
hồn người như mộng vỡ.
______________
* Ai đến

Minh họa | NGUYỄN MINH

Minh họa | NGUYỄN MINH

NHỚ DÁNG PALEI

Mẹ đã xoay vòng nặng một màu
chàm chỉ trong vài giờ
vừa xoay mẹ vừa già
Vậy mà đã xa
ký ức chôn ẩn đầy ngõ ngách của palei *
Đi
Ánh sáng chín vàng đã bị mất từ hôm qua
vĩnh viễn không thấy nữa,
ngọn lửa đã cháy hết hũ lu đất
cháy hết điệu múa
cháy hết màu rơm cuối cùng
Palei phát ra một màu sắc
trên những nỗi đau
làm sao?
tìm lại mẹ, khi bóng khói đã mất
làm sao, tìm hồn chữ giữa bãi cháy sa mạc
lúc này
hiện tại
ngay bây giờ
làm sao để khóc tìm nét cha
trong tấm khăn Njăm
làm sao!!!
chỉ có thể là lửa
và giọt màu đỏ Palei
Đi…
_________________
* Làng người Chăm

Có thể bạn quan tâm

Ký họa chân dung nhà thơ Nguyễn Hùng Vĩ của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

“Em đem mùa hạ rót vào mùa đông”

Những đêm mùa đông chờ Xuân, nơi căn phòng nhỏ ấm, lũ sinh viên nghèo lại quây quần quanh thầy Nguyễn Hùng Vĩ, giảng viên Khoa Ngữ văn, Trường đại học Tổng hợp Hà Nội (cũ), một ông giáo hồn hậu, quê nghèo lam lũ xứ Nghệ, luôn trọng nghĩa trọng tình.

Nhà thơ Vân Anh.

Thơ Vân Anh “mặc định nhịp trẻ”

Dễ thấy lâu nay, người viết khi cho in tuyển tập đồng nghĩa với việc gom lại, khép lại quá trình sáng tác. Nhưng cũng có người sau đó vẫn tiếp tục xuất bản tác phẩm, không phải “út, ít” bòn mót, mà là những “đứa con” bụ bẫm, khỏe mạnh, ai cũng tấm tắc, trầm trồ.

Ký họa chân dung nhà thơ Trần Hoàng Thiên Kim của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Vì yêu mà thao thức

Trần Hoàng Thiên Kim là cái tên không xa lạ với công chúng ở các lĩnh vực báo chí, truyền hình, nghiên cứu văn học hay thơ ca.

Ký họa chân dung nhà thơ Ngô Thanh Vân của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Em và phố và thơ

Ai đó đã từng nói: thơ là bản tự thuật của tâm hồn. Thật thế. Ngoài đời, con người có thể phần nào che giấu được mình, nhưng trong thơ thì không.
Ký họa chân dung nhà thơ Phùng Thị Hương Ly của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Cõng lời thương trên lưng

Nữ nhà thơ Phùng Thị Hương Ly sinh ra và lớn lên ở Bắc Kạn, người Tày, học ngành viết văn, sau ra trường làm báo, hiện sống và viết tại quê hương. Một phác thảo lai lịch như thế cho thấy hai điểm quan trọng: người thơ ấy có một vốn liếng hết sức tự nhiên, sống động về nơi chốn mình, dân tộc mình và được đào tạo bài bản trong môi trường viết.
Ký họa chân dung nhà thơ Huỳnh Thúy Kiều của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

NỒNG NÃ HƯƠNG VỊ MIỀN CHÂU THỔ CHÍN RỒNG

Nhà thơ Huỳnh Thúy Kiều sinh ra và lớn lên ở chính giữa lòng châu thổ Cửu Long. Hiện chị cũng sống và viết tại đây. Như thế, tức là cả đời “ăn chịu” quê hương, xứ sở. Như nắng như gió, như đất như cây, như điệu ca vọng cổ, thơ Huỳnh Thúy Kiều cứ thế cất lên tự nhiên, đậm hương, nồng vị và lan tỏa.
Ký họa chân dung nhà thơ Đào Quốc Minh của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Một phác thảo thơ Ðào Quốc Minh

Những năm gần đây, cái tên Đào Quốc Minh trở nên khá quen thuộc trong văn giới và bạn đọc. Anh viết và xuất bản đã có đến năm sáu tập thơ; tập gần đây nhất là “Phục sinh” (Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2024) với dung lượng khá lớn, 180 bài.
Ký họa chân dung nhà thơ Nguyễn Thị Hồng Ngát của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

“Quả thơm thì ở lại”

Người ta vẫn thường hay nói nhà thơ không có tuổi. Đó là một cách nói vui, lãng mạn, nghiêng về phía an ủi nhau. Thật ra, ai cũng vậy thôi, nhà thơ cũng như tất thảy chúng sinh, không tránh khỏi quy luật của tự nhiên. Tất thảy chúng ta già dần dần, đi theo quy luật của muôn đời: sinh, lão, bệnh, tử… không thể khác.
Ký họa chân dung nhà thơ Trần Kim Hoa của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Thơ của những ký ức cất lời

Trần Kim Hoa làm thơ dễ đã 30 năm có lẻ. Và đã ra được 3 tập thơ riêng đầy đặn, trong đó tập Bên trời gần đây nhất đã được trao Giải thưởng thường niên của Hội Nhà văn Việt nam (2020). Trong vòng ngần ấy thời gian, với 3 tập thơ, cho thấy tác giả không phải là người ham chạy theo số lượng.
Ký họa chân dung nhà thơ Đoàn Văn Mật của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

“Sáng lên từ những nhỏ nhoi”

Cho đến nay, Đoàn Văn Mật đã trình làng ba tập thơ, tập gần đây nhất là “ Ngoài mây trời đầy trống vắng ” (NXB Hội Nhà văn, 2023).
Ký họa chân dung nhà thơ Trần Ngọc Mỹ của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Nhủ lòng vượt lên những phôi pha

Một người làm thơ trẻ thông thường hay lựa chọn một cách thế sống cùng, sống giữa, đồng hành với thế hệ mình và với đời sống hôm nay trong tất cả sự bề bộn, phức tạp và sống động của nó.
Ký họa chân dung nhà thơ Phạm Thị Ngọc Liên của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Phạm Thị Ngọc Liên: Người đi tìm chân dung tình yêu

Tròn 20 năm, nữ thi sĩ Phạm Thị Ngọc Liên mới trở lại thi đàn bằng tập thơ dày dặn mang tên “Trong tôi có nhiều tôi” (Nhà xuất bản Hội Nhà văn). 99 bài thơ kết thành một “con đường thơ” với biển chỉ đường là “Tình yêu”. Phải, tất cả đều là thơ Tình, của một người đàn bà hồn nhiên, đa đoan, sẵn sàng “nhắm mắt đi trên cầu thăng bằng/ nồng nàn/ liều lĩnh” để tìm cho được chân dung của Tình yêu, hay là chân dung thân phận con người.
Ký họa chân dung nhà thơ Thy Nguyên của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Thy Nguyên - Người đàn bà làm thơ buồn

Thơ gắn với buồn từ khi nào, có lẽ từ lúc thơ bắt đầu. Buồn là một phẩm chất của thơ, là một phẩm chất của đời sống con người vốn mong manh hữu hạn, nhiều bất toại hơn như ý. Người cầm bút tìm đến thơ như một cách để cất giấu, lại như một cách để phơi bày nỗi buồn trên mặt giấy. Ðể tìm kiếm một sự đồng cảm, tìm kiếm tri âm. Thy Nguyên là kiểu người làm thơ như vậy, “chơi” với buồn, và “phơi” nỗi buồn, không đắn đo giấu giếm.
Ký họa chân dung nhà thơ Nguyễn Hồng của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Thơ của những xuân thì

Nguyễn Hồng là một cái tên dường như đã quen trong đời sống văn học hiện thời. Chị khá chắc tay trong nhiều thể loại: truyện ngắn, tản văn, thơ. Riêng với thơ, chị đã cho in tập “Ví dụ anh” (2016), và đã đăng rải rác khá nhiều bài thơ lẻ trên các phương tiện truyền thông đại chúng. Một dáng vóc thơ dần được định hình...
Minh họa trang thơ: ĐẶNG TIẾN

Trang thơ

Nhân Dân hằng tháng xin giới thiệu cùng độc giả trang thơ Tết.
Ký họa chân dung nhà thơ Phùng Khắc Bắc của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường

Phùng Khắc Bắc, "Một chấm xanh"

Vào quãng năm đầu thập kỷ chín mươi của thế kỷ trước, khi đang làm nghiên cứu sinh ở Đại học Sư phạm Hà Nội, tôi thấy trong văn giới xôn xao bàn tán về một tài thơ rất lạ mới có 47 tuổi vừa mới khuất. Đó là nhà thơ Phùng Khắc Bắc, tác giả tập thơ duy nhất mang tên “Một chấm xanh” do NXB Quân đội nhân dân phát hành cuối năm 1991.
Ký họa chân dung nhà thơ Nguyễn Hoàng Sơn của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Nguyễn Hoàng Sơn, thơ viết cho thiếu nhi và...

Bạn đọc yêu thơ ngay từ thập niên 80 của thế kỷ XX đã biết đến một cây bút viết thơ cho thiếu nhi mang tên Nguyễn Hoàng Sơn. Lúc ấy, thơ viết cho thiếu nhi nổi bật nhất vẫn là một số cây bút quen thuộc, thế hệ đàn anh như Võ Quảng, Phạm Hổ, Định Hải... Cái tên Nguyễn Hoàng Sơn cùng vài cây bút thế hệ anh như Phạm Đình Ân, Trương Hữu Lợi, Mai Văn Hai... mới bắt đầu thấp thoáng.
Ký họa chân dung thi sĩ Văn Cao của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Văn Cao: "Ngày đêm làm ngọc"

Trong các ấn phẩm về thơ Văn Cao đã xuất bản, chỉ thấy chừng chưa đến mươi bài thơ được viết từ năm 1939 đến năm 1942.
Ký họa chân dung nhà thơ Nguyễn Thị Thúy Hạnh của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Nguyễn Thị Thúy Hạnh: Làm thơ, làm chữ

Trong số những nhà thơ trẻ (xuất hiện ở độ tuổi dưới 35) hiện nay, có một số cây bút rất quan tâm đến việc đổi mới thơ theo cách bắt đầu bằng việc dụng chữ, làm chữ, biến/đổi chữ. Nguyễn Thị Thúy Hạnh là một cây bút như vậy, ngay từ đầu, nhất quán và công khai tư duy về chữ, “di chữ”, “sống lời”, đã xác lập một quan niệm về thơ lấy chữ/ngôn ngữ làm trung tâm.
Ký họa chân dung nhà thơ Phạm Công Trứ của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Nhà thơ Phạm Công Trứ: Tựa vào những câu thơ hay

Trong truyền thống, nhất là với thơ trung đại, người đọc thơ thường hay chú ý đến những câu chữ được coi là tuyệt bút trong bài: những “nhãn tự”, “thần cú”... Cách nhìn này, khi bước sang văn học hiện đại vẫn được chú ý, nhưng không còn là duy nhất, cuối cùng.
Ký họa chân dung nhà thơ Bạch Diệp của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường

Nỗi đồng vọng xôn xao

Quan sát những người “dính” vào chốn thơ, thấy họ làm thơ với rất nhiều động cơ khác nhau. Những động cơ ấy có khi rõ rệt, có khi mơ hồ; có khi thiết thực, có khi lại vu vơ; có thể người thơ ý thức rõ công việc mình làm, có khi cứ viết như một thôi thúc bên trong không cưỡng được...
Ký họa chân dung nhà thơ Trần Lê Khánh của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Say mê và kiên trì với thơ tối giản

Trong khoảng thời gian ngắn, nhà thơ Trần Lê Khánh công bố đều đặn mỗi năm một tập thơ. Tại NXB Hội Nhà văn: “Lục bát múa” (2016), “Dòng sông không vội” (2017), “Ngày như chiếc lá” (2018), “Giọt nắng tràn ly” (2019), “Xứ - rung một ngọn mây” (2020). Tại NXB White Pine Press (Hoa Kỳ): “The beginning of water”. Một gia tài thi ca đáng kể, ít ra là về mặt số/ khối lượng.
Minh họa trang thơ: Nguyễn Quang Thiều

Ở phía ấy...

NGUYỄN PHONG VIỆT

Ở phía ấy là mùi hương và hơi ấm ruộng vườn...