Nhà thơ & Bài thơ hay

Cõng lời thương trên lưng

Nữ nhà thơ Phùng Thị Hương Ly sinh ra và lớn lên ở Bắc Kạn, người Tày, học ngành viết văn, sau ra trường làm báo, hiện sống và viết tại quê hương. Một phác thảo lai lịch như thế cho thấy hai điểm quan trọng: người thơ ấy có một vốn liếng hết sức tự nhiên, sống động về nơi chốn mình, dân tộc mình và được đào tạo bài bản trong môi trường viết.
Ký họa chân dung nhà thơ Phùng Thị Hương Ly của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.
Ký họa chân dung nhà thơ Phùng Thị Hương Ly của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Đối với ai cũng quan trọng, nhưng đối với một người viết văn, văn hóa bản địa như thể một kho báu được trao truyền và trao gửi để cất tiếng. Tuy nhiên, không phải cây bút nào cũng ý thức rõ rệt về điều này. Rất may mắn, Phùng Thị Hương Ly đã sớm nhận ra, biết chịu ơn, kiêu hãnh về căn cước dân tộc và nơi chốn của mình. Chả thế mà chị rất tự hào: “Cô gái Tày là em/Chào đời giữa mùa trám đen trĩu ngọn cây/(...) Cô gái Tày là em/Lớn lên rồi ra phố(Nói cùng anh). Có phải tộc người Tày trên núi đã chọn Phùng Thị Hương Ly để ký thác hay chính nhà thơ đã thổ lộ tấm lòng ân nghĩa: “Mặt trời nhìn người Tày thương nhau/Mái ngói âm dương mưa nắng chụm đầu/ Lòng khắc ghi lời tiên tổ/ Xà tích qua bản còn vọng thổ âm/ Vòng bạc đơm hoa trên cổ cao ba ngấn”…(Bài ca của núi)?

Công khai và kiêu hãnh căn cước của mình trong các sáng tạo thơ ca cứ tưởng là một việc tự nhiên và tất yếu, nhưng thực ra không hẳn ai cũng như vậy. Phải là một người có ý thức rõ rệt về căn tính của mình, tự tin và kiêu hãnh về chính mình, về văn hóa dân tộc mình, khi đó mới có khả năng biểu đạt sâu sắc và độc đáo trong sáng tạo. Đó là dấu chỉ xác nhận một cây bút trưởng thành. Là người con của dân tộc Tày ý thức cao về tư thế và phẩm giá (“Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương”- Y Phương), Phùng Thị Hương Ly cất lên những vui buồn của chính mình trong mối liên hệ mật thiết với cộng đồng.

Đây là khung cảnh đồng bào: “Những người trên núi/ Bước đi trong thao thức mùa màng/ Tai măng bật lên đắng ngọt/ Núi bốn mùa gió lộng thênh thang” (Trên núi). Còn đây là những đứa trẻ đồng rừng: “Những đứa trẻ làng bé như cây nấm/ Hò nhau lên bãi trống trên đồi/Trượt cỏ may cả ngày không chán/ Ngã lăn lóc rồi vẫn cứ chơi”...(Nắng bên kia đồi). Phùng Thị Hương Ly dành nhiều những vần thơ đằm thắm yêu thương, chi chút và có cả những ngậm ngùi cho quê hương nghèo khó mà tình nghĩa: “Con về/ Cõng trên lưng lời thương/ Chín bậc cầu thang/ Chạm vào câu hát” (Trở về). Yêu thường tìm đến những vẻ đẹp để ngợi ca. Còn thương thường hay hướng về những nỗi buồn tủi. Vào lúc cuối chiều, trên con đường từ nương về bản:“Người đàn bà gánh măng xuống núi/ Gánh cả nỗi niềm liêu xiêu” (Nắng bên kia đồi). Câu thơ chở hình bóng một người phụ nữ lao động thật giản dị đủ khiến người đọc bùi ngùi...Thơ Phùng Thị Hương Ly thường hay ngả về những chạnh lòng như thế, nhất là trước những đứa trẻ: “Bà gọi/ Về tắm nước thơm/ Lá của núi làm sạch bàn chân nhem nhuốc/ Đuổi đi mùi lạ/ Xua đi cái độc trong người” (Câu chuyện mùa mưa). Những câu thơ nhiều nỗi niềm như vậy vẫn mang mang hồn vía, phong khí của bản làng. Nhờ vậy mà chúng có chút lạ lẫm đủ gây quyến luyến trong tâm trí người đọc.

Thật lạ, một người viết rất trẻ như Phùng Thị Hương Ly lại có khá nhiều bài thơ quan tâm đến chiến tranh và người lính. Không phải là những khung cảnh chiến tranh trực diện. Cũng không phải ảnh hình người lính trên chiến trường. Đó là những vọng âm của chiến tranh - những di chứng hậu chiến còn dai dẳng mà nhà thơ bắt gặp hoặc cảm nhận. Đây là hình ảnh của một người đàn ông canh nương: “Những câu chuyện được rót ra/ Từ chiếc bi đông đã rỉ/ Tiếng nước sôi như ai huýt sáo/ Vọng dài/ Ta nói gì với nhau núi rừng đều nghe được/ Người canh nương canh bóng mình hành quân cùng đồng đội/ Rót trà đợi những râm ran...” (Người canh nương). Thì ra người đàn ông canh nương ấy là một cựu binh đi ra từ cuộc chiến, nay trở về trong thời bình, hòa lẫn vào cuộc sống thường ngày ở làng bản quê hương. Tuy nhiên, dưới sự cảm nhận tinh tường của nhà thơ, hồi âm của quá khứ chiến trận vẫn vọng về theo cách của nó.

Có khi ở dạng toàn bài, có khi là những câu/đoạn thơ ở dạng liên tưởng, hình ảnh những người lính thật trìu mến và trang trọng hiện lên trong các cảnh huống khác nhau: hoặc đã hy sinh và giờ đây hòa lẫn vào mây trời, đất đai xứ sở; hoặc bước sang thời bình, sống một cuộc đời bình dị, lặng thầm như cây cỏ (Thổ Sơn, Viết ở tiểu đoàn 804, Trên những hố bom, Dưới vòm hoa đại khải, Thao thức tháng Ba...). Ở đó, không hề có bóng dáng của bi lụy, ngược lại vẫn ấm áp sự sống thanh sạch và kiêu hãnh: “Người cựu binh không còn những đêm thức trắng/ Lưng đồi âm âm gió/ Búp sen ngập ngừng đáy nước/ Mùa thơm ngan ngát bên đồi” (Trên những hố bom). Những câu thơ tinh khôi và đẹp đẽ biết bao!

Gần đây, có một số ý kiến băn khoăn rằng, liệu sau thế hệ các nhà văn trực tiếp là người lính thì các cây bút sinh ra trong thời bình có còn tha thiết viết và viết được không về chiến tranh? Câu trả lời đã có. Tuy không nhiều, nhưng gần đây cũng từng có một số cây bút trẻ viết về chiến tranh theo cách của họ. Phùng Thị Hương Ly là một tiếp nối tin cậy về dòng chảy văn học chiến tranh đang được tiếp tục trong dáng vẻ thanh tân của hôm nay.

Tác giả này lựa chọn thể thơ tự do từ đầu đến cuối. Chủ động phối hợp đan xen giữa thực tại và tâm linh, thực vào ảo, cuộc sống thường ngày và văn hóa tộc người, người thơ có một lối viết được điều tiết bởi ý thức lao động chuyên nghiệp, tinh tế.

Thơ Phùng Thị Hương Ly đằm thắm trong hồn cốt dân tộc, biếc thơm trong hương sắc thổ ngơi mà vẫn nhuần thấm một tinh thần hiện đại.

Nhân Dân hằng tháng trân trọng giới thiệu 2 bài thơ tiêu biểu của nhà thơ Phùng Thị Hương Ly

MÍA TRỔ CỜ

Khi mía trổ hoa

Là lúc thân mình đã nhạt

Ngọt ngào không biến thành đường mật

Theo gió bay đi

Rỗng cả lòng mía

Người vun trồng rát mặt

Vun cả giấc mơ ngàn kiếp

Mặt trời lặn vào thân cây óng ả

Mía trổ qua mùa

Đời mía bỗng tựa ngàn lau sậy

Và hóa như mây bay

Người đau đáu gom lại mùa cũ

Những vết lá cào xước đến tận cùng

Lời hẹn người xưa đi vắng

Mía trổ trắng cờ

Giấc mơ hóa thành mây bay.

Minh họa | NGUYỄN MINH

Minh họa | NGUYỄN MINH

Người canh nương

Những ngón tay nóng rẫy

con đường đi ra từ dấu chỉ ráp thô

người canh nương nhóm lên bóng tối

xù xì phiến đá

đào nở hoa trên áo bông chần gài khuy ẩn

lúc này là ấm nước sôi

là sương hay mây trôi

ngang qua cuộc gạn lọc mình

dấu chỉ tay hằn rõ hơn

về những bắp chân căng nắng

trùng trùng vượt sông núi

xanh thẳm khôn nguôi

những câu chuyện được rót ra

từ chiếc bi đông đã rỉ

tiếng nước sôi như ai huýt sáo

vọng dài

ta nói gì với nhau núi rừng đều nghe được

người canh nương canh bóng mình hành quân cùng đồng đội

rót trà đợi những râm ran…

Có thể bạn quan tâm

Ký họa chân dung nhà thơ Nguyễn Hùng Vĩ của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

“Em đem mùa hạ rót vào mùa đông”

Những đêm mùa đông chờ Xuân, nơi căn phòng nhỏ ấm, lũ sinh viên nghèo lại quây quần quanh thầy Nguyễn Hùng Vĩ, giảng viên Khoa Ngữ văn, Trường đại học Tổng hợp Hà Nội (cũ), một ông giáo hồn hậu, quê nghèo lam lũ xứ Nghệ, luôn trọng nghĩa trọng tình.

Nhà thơ Vân Anh.

Thơ Vân Anh “mặc định nhịp trẻ”

Dễ thấy lâu nay, người viết khi cho in tuyển tập đồng nghĩa với việc gom lại, khép lại quá trình sáng tác. Nhưng cũng có người sau đó vẫn tiếp tục xuất bản tác phẩm, không phải “út, ít” bòn mót, mà là những “đứa con” bụ bẫm, khỏe mạnh, ai cũng tấm tắc, trầm trồ.

Ký họa chân dung nhà thơ Trần Hoàng Thiên Kim của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Vì yêu mà thao thức

Trần Hoàng Thiên Kim là cái tên không xa lạ với công chúng ở các lĩnh vực báo chí, truyền hình, nghiên cứu văn học hay thơ ca.

Ký họa chân dung nhà thơ Ngô Thanh Vân của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Em và phố và thơ

Ai đó đã từng nói: thơ là bản tự thuật của tâm hồn. Thật thế. Ngoài đời, con người có thể phần nào che giấu được mình, nhưng trong thơ thì không.
Ký họa chân dung nhà thơ Huỳnh Thúy Kiều của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

NỒNG NÃ HƯƠNG VỊ MIỀN CHÂU THỔ CHÍN RỒNG

Nhà thơ Huỳnh Thúy Kiều sinh ra và lớn lên ở chính giữa lòng châu thổ Cửu Long. Hiện chị cũng sống và viết tại đây. Như thế, tức là cả đời “ăn chịu” quê hương, xứ sở. Như nắng như gió, như đất như cây, như điệu ca vọng cổ, thơ Huỳnh Thúy Kiều cứ thế cất lên tự nhiên, đậm hương, nồng vị và lan tỏa.
Ký họa chân dung nhà thơ Đào Quốc Minh của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Một phác thảo thơ Ðào Quốc Minh

Những năm gần đây, cái tên Đào Quốc Minh trở nên khá quen thuộc trong văn giới và bạn đọc. Anh viết và xuất bản đã có đến năm sáu tập thơ; tập gần đây nhất là “Phục sinh” (Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2024) với dung lượng khá lớn, 180 bài.
Ký họa chân dung nhà thơ Nguyễn Thị Hồng Ngát của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

“Quả thơm thì ở lại”

Người ta vẫn thường hay nói nhà thơ không có tuổi. Đó là một cách nói vui, lãng mạn, nghiêng về phía an ủi nhau. Thật ra, ai cũng vậy thôi, nhà thơ cũng như tất thảy chúng sinh, không tránh khỏi quy luật của tự nhiên. Tất thảy chúng ta già dần dần, đi theo quy luật của muôn đời: sinh, lão, bệnh, tử… không thể khác.
Ký họa chân dung nhà thơ Trần Kim Hoa của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Thơ của những ký ức cất lời

Trần Kim Hoa làm thơ dễ đã 30 năm có lẻ. Và đã ra được 3 tập thơ riêng đầy đặn, trong đó tập Bên trời gần đây nhất đã được trao Giải thưởng thường niên của Hội Nhà văn Việt nam (2020). Trong vòng ngần ấy thời gian, với 3 tập thơ, cho thấy tác giả không phải là người ham chạy theo số lượng.
Ký họa chân dung nhà thơ Đoàn Văn Mật của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

“Sáng lên từ những nhỏ nhoi”

Cho đến nay, Đoàn Văn Mật đã trình làng ba tập thơ, tập gần đây nhất là “ Ngoài mây trời đầy trống vắng ” (NXB Hội Nhà văn, 2023).
Ký họa chân dung nhà thơ Kiều Maily của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Thơ, hoa của người

Trong bài thơ mang tên “Nàng, hoa của cát” (đồng thời cũng được lấy làm tên cho tập thơ, NXB Hội nhà văn, 2019), nhà thơ Kiều Maily đã có những câu thơ như thể tự họa về mình: Nàng, hoa của cát/ yếu đuối giữa men tình/ kiêu hãnh với cô đơn/ nỗi mơ cuốn nàng về miền hạnh phúc/ Nàng, hương của đất/ chắt chiu giọt phù sa nuôi nấng đời cây/ hẹn mùa gieo hạt. Bài thơ có ba chủ thể: nàng, hoa và cát trong mối quan hệ gắn bó, ràng rịt với nhau.
Ký họa chân dung nhà thơ Trần Ngọc Mỹ của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Nhủ lòng vượt lên những phôi pha

Một người làm thơ trẻ thông thường hay lựa chọn một cách thế sống cùng, sống giữa, đồng hành với thế hệ mình và với đời sống hôm nay trong tất cả sự bề bộn, phức tạp và sống động của nó.
Ký họa chân dung nhà thơ Phạm Thị Ngọc Liên của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Phạm Thị Ngọc Liên: Người đi tìm chân dung tình yêu

Tròn 20 năm, nữ thi sĩ Phạm Thị Ngọc Liên mới trở lại thi đàn bằng tập thơ dày dặn mang tên “Trong tôi có nhiều tôi” (Nhà xuất bản Hội Nhà văn). 99 bài thơ kết thành một “con đường thơ” với biển chỉ đường là “Tình yêu”. Phải, tất cả đều là thơ Tình, của một người đàn bà hồn nhiên, đa đoan, sẵn sàng “nhắm mắt đi trên cầu thăng bằng/ nồng nàn/ liều lĩnh” để tìm cho được chân dung của Tình yêu, hay là chân dung thân phận con người.
Ký họa chân dung nhà thơ Thy Nguyên của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Thy Nguyên - Người đàn bà làm thơ buồn

Thơ gắn với buồn từ khi nào, có lẽ từ lúc thơ bắt đầu. Buồn là một phẩm chất của thơ, là một phẩm chất của đời sống con người vốn mong manh hữu hạn, nhiều bất toại hơn như ý. Người cầm bút tìm đến thơ như một cách để cất giấu, lại như một cách để phơi bày nỗi buồn trên mặt giấy. Ðể tìm kiếm một sự đồng cảm, tìm kiếm tri âm. Thy Nguyên là kiểu người làm thơ như vậy, “chơi” với buồn, và “phơi” nỗi buồn, không đắn đo giấu giếm.
Ký họa chân dung nhà thơ Nguyễn Hồng của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Thơ của những xuân thì

Nguyễn Hồng là một cái tên dường như đã quen trong đời sống văn học hiện thời. Chị khá chắc tay trong nhiều thể loại: truyện ngắn, tản văn, thơ. Riêng với thơ, chị đã cho in tập “Ví dụ anh” (2016), và đã đăng rải rác khá nhiều bài thơ lẻ trên các phương tiện truyền thông đại chúng. Một dáng vóc thơ dần được định hình...
Minh họa trang thơ: ĐẶNG TIẾN

Trang thơ

Nhân Dân hằng tháng xin giới thiệu cùng độc giả trang thơ Tết.
Ký họa chân dung nhà thơ Phùng Khắc Bắc của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường

Phùng Khắc Bắc, "Một chấm xanh"

Vào quãng năm đầu thập kỷ chín mươi của thế kỷ trước, khi đang làm nghiên cứu sinh ở Đại học Sư phạm Hà Nội, tôi thấy trong văn giới xôn xao bàn tán về một tài thơ rất lạ mới có 47 tuổi vừa mới khuất. Đó là nhà thơ Phùng Khắc Bắc, tác giả tập thơ duy nhất mang tên “Một chấm xanh” do NXB Quân đội nhân dân phát hành cuối năm 1991.
Ký họa chân dung nhà thơ Nguyễn Hoàng Sơn của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Nguyễn Hoàng Sơn, thơ viết cho thiếu nhi và...

Bạn đọc yêu thơ ngay từ thập niên 80 của thế kỷ XX đã biết đến một cây bút viết thơ cho thiếu nhi mang tên Nguyễn Hoàng Sơn. Lúc ấy, thơ viết cho thiếu nhi nổi bật nhất vẫn là một số cây bút quen thuộc, thế hệ đàn anh như Võ Quảng, Phạm Hổ, Định Hải... Cái tên Nguyễn Hoàng Sơn cùng vài cây bút thế hệ anh như Phạm Đình Ân, Trương Hữu Lợi, Mai Văn Hai... mới bắt đầu thấp thoáng.
Ký họa chân dung thi sĩ Văn Cao của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Văn Cao: "Ngày đêm làm ngọc"

Trong các ấn phẩm về thơ Văn Cao đã xuất bản, chỉ thấy chừng chưa đến mươi bài thơ được viết từ năm 1939 đến năm 1942.
Ký họa chân dung nhà thơ Nguyễn Thị Thúy Hạnh của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Nguyễn Thị Thúy Hạnh: Làm thơ, làm chữ

Trong số những nhà thơ trẻ (xuất hiện ở độ tuổi dưới 35) hiện nay, có một số cây bút rất quan tâm đến việc đổi mới thơ theo cách bắt đầu bằng việc dụng chữ, làm chữ, biến/đổi chữ. Nguyễn Thị Thúy Hạnh là một cây bút như vậy, ngay từ đầu, nhất quán và công khai tư duy về chữ, “di chữ”, “sống lời”, đã xác lập một quan niệm về thơ lấy chữ/ngôn ngữ làm trung tâm.
Ký họa chân dung nhà thơ Phạm Công Trứ của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Nhà thơ Phạm Công Trứ: Tựa vào những câu thơ hay

Trong truyền thống, nhất là với thơ trung đại, người đọc thơ thường hay chú ý đến những câu chữ được coi là tuyệt bút trong bài: những “nhãn tự”, “thần cú”... Cách nhìn này, khi bước sang văn học hiện đại vẫn được chú ý, nhưng không còn là duy nhất, cuối cùng.
Ký họa chân dung nhà thơ Bạch Diệp của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường

Nỗi đồng vọng xôn xao

Quan sát những người “dính” vào chốn thơ, thấy họ làm thơ với rất nhiều động cơ khác nhau. Những động cơ ấy có khi rõ rệt, có khi mơ hồ; có khi thiết thực, có khi lại vu vơ; có thể người thơ ý thức rõ công việc mình làm, có khi cứ viết như một thôi thúc bên trong không cưỡng được...
Ký họa chân dung nhà thơ Trần Lê Khánh của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Say mê và kiên trì với thơ tối giản

Trong khoảng thời gian ngắn, nhà thơ Trần Lê Khánh công bố đều đặn mỗi năm một tập thơ. Tại NXB Hội Nhà văn: “Lục bát múa” (2016), “Dòng sông không vội” (2017), “Ngày như chiếc lá” (2018), “Giọt nắng tràn ly” (2019), “Xứ - rung một ngọn mây” (2020). Tại NXB White Pine Press (Hoa Kỳ): “The beginning of water”. Một gia tài thi ca đáng kể, ít ra là về mặt số/ khối lượng.
Minh họa trang thơ: Nguyễn Quang Thiều

Ở phía ấy...

NGUYỄN PHONG VIỆT

Ở phía ấy là mùi hương và hơi ấm ruộng vườn...