Nguyễn Hùng Vĩ:

“Em đem mùa hạ rót vào mùa đông”

Những đêm mùa đông chờ Xuân, nơi căn phòng nhỏ ấm, lũ sinh viên nghèo lại quây quần quanh thầy Nguyễn Hùng Vĩ, giảng viên Khoa Ngữ văn, Trường đại học Tổng hợp Hà Nội (cũ), một ông giáo hồn hậu, quê nghèo lam lũ xứ Nghệ, luôn trọng nghĩa trọng tình.

Ký họa chân dung nhà thơ Nguyễn Hùng Vĩ của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.
Ký họa chân dung nhà thơ Nguyễn Hùng Vĩ của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Ông là một “kho thuốc nổ” - cứ có cơn cớ, hứng thú sẽ nổ tung các cuộc tao ngộ. “Thuốc nổ” ấy là kiến văn, nguồn dữ liệu, khối chữ nghĩa dồi dào, là niềm vui “bá vai bá cổ” xóa ranh giới khoảng cách thầy - trò.

Có những đêm thơ, sinh hoạt ngoại khóa giữa các tân - cựu sinh viên Văn khoa, ông tưng bừng cùng các nhóm tới tận đêm vắt sang sớm hôm sau. Giữa sân ký túc xã Mễ Trì, giọng Nghệ của ông khó lẫn với những câu thơ tình, chuyện vui dí dỏm…

Cứ thế, mái ấm nhà thầy Nguyễn Hùng Vĩ trong khu tập thể trường là nơi nhiều khóa sinh viên đến tá túc đàm đạo văn chương. Ông cưu mang nhiều sinh viên hoàn cảnh khó khăn, cho ở, cho ăn, cho mặc, cho tiền đóng học phí… Đương nhiên là ông cho cả chữ, chữ đó không chỉ có trong giáo trình, bài giảng, mà còn đọng trong nhân cách người thầy. Đến tận giờ khi ông đã nghỉ dạy, một nhóm học trò cũ hò nhau góp sức in cho ông tập thơ mà ông từ chối suốt, chắc không nỡ làm phiền. Tập thơ đầu tay vẫn chưa ra đời nhưng nhiều câu thơ đã sống trong lòng bạn đọc, trong đó có nhiều thế hệ sinh viên.

***

Cái chất của ông thầy xứ Nghệ theo nhà thơ, nhà giáo, nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Hùng Vĩ đi vào trong thơ với một nỗi buồn trong trẻo, hướng về cái Đẹp. Thơ Nguyễn Hùng Vĩ hội đủ sự lãng mạn của trường phái “Tổng hợp Văn Hà Nội”.

Đây, một khổ thơ về “Đà Lạt”: Rồi thì kệ gió đông cứ rót vào nắng hạ/Kệ hoa xuân nhỏng nhảnh cạnh cành thu/Chào em nhé cô đơn sau rặng quỳ vàng chóe/Ta xuôi đèo Ngoạn Mục lượn như ru... Khẩu khí của một lữ khách trước vẻ đẹp riêng có của Đà Lạt. Bài thơ dùng dằng rất thơ, hiện đại hơn một số nhà thơ xưa cũng viết về Đà Lạt. Nó có nhịp, hơi thơ, cách dùng ngôn ngữ phá cách hơn. Lãng mạn và kiêu bạc có hơi hướng Thu Bồn khi “Tạm biệt Huế” “trở về hóa đá phía bên kia”.

Nguyễn Hùng Vĩ đi nhiều, không đoái hoài chốn quan trường mà chỉ trong vai nhà nghiên cứu điền dã nhặt từng câu ca, câu vè cổ từ dân gian vốn phong phú giàu có. Vì thế ông có nhiều thơ về các miền quê nhưng đầy chất tả tình mà không liệt kê thắng cảnh, địa danh như mô-típ “Thơ báo cáo” nhiều người mắc. Viết về các vùng đất nhưng là nói thân phận; cảnh huống đều mang hình bóng con người. Trái tim mẫn cảm luôn đập trước nhịp đi của thiên nhiên, trời đất; và cảnh đó, không gian đó luôn ôm trùm tâm trạng nhà thơ.

Nguyễn Hùng Vĩ còn có chất hóm hỉnh rất dân gian và đôi lúc như đồng cảm với Nguyễn Duy, nhà thơ mà ông hay trích dẫn trong các cuộc hội ngộ văn chương với bạn bè và học trò. Ông đùa vui với vợ - người luôn ở bên nâng giấc cho giấc mơ ông giáo nghèo - để giấu đi những thương cảm không cần phải nói ra, khoe ra: Từ ngày em sắm vôi ve/ Em bôi em trát em chê tôi già/ Hôm nay em ốm nằm nhà/ Ve không trát được em già hơn tôi.

Các thi sĩ hay làm thơ tình với hình mẫu lồng ghép nhiều người đẹp, chứ ít người làm thơ tặng vợ. Người thực, việc thực, viết mà không ra là chợt thành có lỗi. Ta cũng gặp ở Nguyễn Hùng Vĩ những câu lục bát thật tình: Thế mà đông cũng sang xuân/ Trời cho ta sống đồng lần bên nhau/ Tóc dăm sợi bạc trên đầu/ Ôm em mà hát mấy câu dối già... (Dối già).

Cứ thế ông viết cho quê nhà, cho mẹ, cho vợ con và bè bạn bằng cái tình ấm áp, trân quý, nâng niu. Bài “Gửi chị” có cách nói về Hà Nội, quê hương thứ hai của tác giả với nhiều đặc trưng: Tây Hồ lạnh, Khói hương Quán Thánh, Thiền Quang Thu hoa sữa, Nhật Tân Xuân… nhưng nếu cứ kể mãi thì biết kết thế nào, cuối cùng cũng có phương án thật bâng khuâng: Bánh mì nóng giẫy hoa niên đói/ Xuýt xoa nhau ngon đến bây giờ/ Ðất dường hẹp lại đường ngắn lại/ Nhớ nhau chả đủ nhớ ra hồn/ Chỉ có xưa là xa ngái/ Nơi này gửi chị chút xưa suông...

Bài thơ theo nhịp cổ, tạo một không khí xưa, đầy thương cảm làm ta hình dung một người chị ở quê nhà đang mong ngóng, nhớ thương người em nơi đất khách quê người… Tất cả hình ảnh Hà thành cũ vẫn còn nguyên trong những mô tả kỹ, chỉ riêng ngày xưa mãi không trở lại. Đây là một cách tạo bất ngờ khiến bài thơ gây xúc động về một thời xa lắc xa lơ nhiều dư vị.

Về mẹ, Nguyễn Hùng Vĩ cũng kính dâng nhiều bài thơ giàu ý nghĩa. Vượt lên nỗi riêng tư, người mẹ của nhà thơ đã hòa vào hình ảnh quê hương, xứ sở thân thương. Mỗi người đọc đều thấy có mẹ mình trong đó, những bà mẹ tảo tần khắp các vùng quê Việt, cả đời trông ngóng con xa. Đất nước mình là vậy, chiến tranh, loạn lạc, ly tán…, đâu đâu cũng rưng rưng hình bóng mẹ:

Con đã viết hàng ngàn trang chữ lá/ Thả sông đời bằn bặt trôi xuôi/ Con đã về một lần trên bến mới/ Sông đổi dòng bến lạ lắm mẹ ơi (Lá bàng rụng bến sông quê).

Thơ Nguyễn Hùng Vĩ, nếu cứ chỉ xuôi xuôi dòng lãng đãng, nhiều mỹ từ của giới sinh viên Văn khoa sẽ không có gì đáng nói. Thơ ông đằm sâu nỗi niềm thế sự, suy tư thời cuộc, xa xót kiếp thầy giáo nghèo nhưng không chịu đánh mất mình. Đau nhưng luôn bình thản đón nhận như một lẽ thường tình của số phận: Những đồng tiền vá víu đời khó nhọc/ Cha mẹ nát nhàu lận đận những tháng năm/ Ký ức dẫu buồn cũng là tài sản/ Của hồi môn giữ suốt cuộc đời này. (Đợi).

Trong nhiều bài thơ, Nguyễn Hùng Vĩ tìm được lối nói mới, cấu tứ lạ, thoát khỏi mệnh danh nhà thơ “dân gian” mà nhiều người đặt, để làm “mô-đéc” chính mình. Ví như bài “Giường nhà ta”, không gian chỉ xoay quanh mấy thước vuông giường mà nói thật sâu về mối quan hệ bền chặt cha mẹ - con cái - vợ chồng. Mảnh giường vừa là vật chất - “ruộng đồng”: Đêm hóa ruộng những vai cày um úp; vừa mang giá trị tinh thần: Lặng lẽ anh nghiêng nằm ôm em/ Dường thấy bình yên qua hơi thở/ Đất đai cũng nằm nghiêng mà sinh nở. Bài thơ không một từ ngợi ca trực diện người vợ nhưng lại ngầm nhắc đến chủ thể chính của sự sinh sôi hạnh phúc…

***

Một nhà thơ ẩn mình trong vai ông giáo, khiêm cung lặng lẽ luôn đau đáu nỗi đời, thầm cất giấu lai lịch mình trong những câu thơ nhưng nhức: Đầu thai câu giã bạn/ Ta cầm tinh nỗi buồn. Và dù buồn đau đến mấy thì trong người thơ ấy vẫn rung ngân những nhịp thơ nhân bản, yêu đời, yêu người, nồng ấm ly rượu rót trong mùa đông giá, để ngỡ nghe như có tiếng “mùa hạ rót vào mùa đông”. Nhiều lớp sinh viên và độc giả chắc cũng đều cảm nhận như vậy dù chưa được nhìn thấy tập thơ đầu tay của thầy, thưa thầy Nguyễn Hùng Vĩ!

Nhân Dân hằng tháng trân trọng giới thiệu 2 bài thơ tiêu biểu của nhà thơ Nguyễn Hùng Vĩ

GẶP LẠI

Hai tay nâng chén rượu đào
Em đem mùa hạ rót vào mùa đông
Hai tay bưng lấy má hồng
Em đem mắt khuấy đục lòng ta lên

Chỉ trời xưa chẳng xe duyên
Lưới trần nay buộc ràng quen mất rồi
Bể tình đã tạnh sóng khơi
Xin đừng gieo gió nữa người ta yêu

Lắng phèn nước đã trong veo
Đỏ dây muống, tím hoa bèo mà chi.

tran-xuan-binh.jpg
Minh họa | TRẦN XUÂN BÌNH

VỀ HUẾ

(Tặng các anh các chị đồng môn Thế Tường, Toàn Thắng, Hồng Minh, Bích Lài và...)

Sông Hương chảy chậm qua Vĩ Giạ
Mây trắng trên dòng cũng trầm ngâm
Hình như sắp hút vào biển cả
Sông tiếc nguồn xa phút nuối thầm.

Về đây coi bộ sông đã mỏi
Miên man dìu sóng thêm một tuổi
Cái thời đâu biết tháng ngày trôi
Cơm áo lo toan ngốt cả người.

Xưa Huế với mình nhiều bạn lắm
Quán cơm An Cựu mép bờ sông
Bạn tuổi hoa niên dằng dặc đói
Đi dạy về đạp xích lô rong.

Đứa buồn ngật ngưỡng quanh năm rượu
Nhân tình thế thái bạc như vôi
Ra bến ôm trăng làm Lý Bạch
Nhọc nhằn gửi lại khói hương thôi.

Chiều về ngồi uống chậm như sông
Mai mốt người còn có nhớ không
Cái thủa tóc buông vời bến cũ
Huế đã xa xôi đến chạnh lòng.

Có thể bạn quan tâm

Nhà thơ Vân Anh.

Thơ Vân Anh “mặc định nhịp trẻ”

Dễ thấy lâu nay, người viết khi cho in tuyển tập đồng nghĩa với việc gom lại, khép lại quá trình sáng tác. Nhưng cũng có người sau đó vẫn tiếp tục xuất bản tác phẩm, không phải “út, ít” bòn mót, mà là những “đứa con” bụ bẫm, khỏe mạnh, ai cũng tấm tắc, trầm trồ.

Ký họa chân dung nhà thơ Trần Hoàng Thiên Kim của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Vì yêu mà thao thức

Trần Hoàng Thiên Kim là cái tên không xa lạ với công chúng ở các lĩnh vực báo chí, truyền hình, nghiên cứu văn học hay thơ ca.

Ký họa chân dung nhà thơ Ngô Thanh Vân của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Em và phố và thơ

Ai đó đã từng nói: thơ là bản tự thuật của tâm hồn. Thật thế. Ngoài đời, con người có thể phần nào che giấu được mình, nhưng trong thơ thì không.
Ký họa chân dung nhà thơ Phùng Thị Hương Ly của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Cõng lời thương trên lưng

Nữ nhà thơ Phùng Thị Hương Ly sinh ra và lớn lên ở Bắc Kạn, người Tày, học ngành viết văn, sau ra trường làm báo, hiện sống và viết tại quê hương. Một phác thảo lai lịch như thế cho thấy hai điểm quan trọng: người thơ ấy có một vốn liếng hết sức tự nhiên, sống động về nơi chốn mình, dân tộc mình và được đào tạo bài bản trong môi trường viết.
Ký họa chân dung nhà thơ Huỳnh Thúy Kiều của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

NỒNG NÃ HƯƠNG VỊ MIỀN CHÂU THỔ CHÍN RỒNG

Nhà thơ Huỳnh Thúy Kiều sinh ra và lớn lên ở chính giữa lòng châu thổ Cửu Long. Hiện chị cũng sống và viết tại đây. Như thế, tức là cả đời “ăn chịu” quê hương, xứ sở. Như nắng như gió, như đất như cây, như điệu ca vọng cổ, thơ Huỳnh Thúy Kiều cứ thế cất lên tự nhiên, đậm hương, nồng vị và lan tỏa.
Ký họa chân dung nhà thơ Đào Quốc Minh của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Một phác thảo thơ Ðào Quốc Minh

Những năm gần đây, cái tên Đào Quốc Minh trở nên khá quen thuộc trong văn giới và bạn đọc. Anh viết và xuất bản đã có đến năm sáu tập thơ; tập gần đây nhất là “Phục sinh” (Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2024) với dung lượng khá lớn, 180 bài.
Ký họa chân dung nhà thơ Nguyễn Thị Hồng Ngát của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

“Quả thơm thì ở lại”

Người ta vẫn thường hay nói nhà thơ không có tuổi. Đó là một cách nói vui, lãng mạn, nghiêng về phía an ủi nhau. Thật ra, ai cũng vậy thôi, nhà thơ cũng như tất thảy chúng sinh, không tránh khỏi quy luật của tự nhiên. Tất thảy chúng ta già dần dần, đi theo quy luật của muôn đời: sinh, lão, bệnh, tử… không thể khác.
Ký họa chân dung nhà thơ Trần Kim Hoa của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Thơ của những ký ức cất lời

Trần Kim Hoa làm thơ dễ đã 30 năm có lẻ. Và đã ra được 3 tập thơ riêng đầy đặn, trong đó tập Bên trời gần đây nhất đã được trao Giải thưởng thường niên của Hội Nhà văn Việt nam (2020). Trong vòng ngần ấy thời gian, với 3 tập thơ, cho thấy tác giả không phải là người ham chạy theo số lượng.
Ký họa chân dung nhà thơ Đoàn Văn Mật của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

“Sáng lên từ những nhỏ nhoi”

Cho đến nay, Đoàn Văn Mật đã trình làng ba tập thơ, tập gần đây nhất là “ Ngoài mây trời đầy trống vắng ” (NXB Hội Nhà văn, 2023).
Ký họa chân dung nhà thơ Kiều Maily của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Thơ, hoa của người

Trong bài thơ mang tên “Nàng, hoa của cát” (đồng thời cũng được lấy làm tên cho tập thơ, NXB Hội nhà văn, 2019), nhà thơ Kiều Maily đã có những câu thơ như thể tự họa về mình: Nàng, hoa của cát/ yếu đuối giữa men tình/ kiêu hãnh với cô đơn/ nỗi mơ cuốn nàng về miền hạnh phúc/ Nàng, hương của đất/ chắt chiu giọt phù sa nuôi nấng đời cây/ hẹn mùa gieo hạt. Bài thơ có ba chủ thể: nàng, hoa và cát trong mối quan hệ gắn bó, ràng rịt với nhau.
Ký họa chân dung nhà thơ Trần Ngọc Mỹ của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Nhủ lòng vượt lên những phôi pha

Một người làm thơ trẻ thông thường hay lựa chọn một cách thế sống cùng, sống giữa, đồng hành với thế hệ mình và với đời sống hôm nay trong tất cả sự bề bộn, phức tạp và sống động của nó.
Ký họa chân dung nhà thơ Phạm Thị Ngọc Liên của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Phạm Thị Ngọc Liên: Người đi tìm chân dung tình yêu

Tròn 20 năm, nữ thi sĩ Phạm Thị Ngọc Liên mới trở lại thi đàn bằng tập thơ dày dặn mang tên “Trong tôi có nhiều tôi” (Nhà xuất bản Hội Nhà văn). 99 bài thơ kết thành một “con đường thơ” với biển chỉ đường là “Tình yêu”. Phải, tất cả đều là thơ Tình, của một người đàn bà hồn nhiên, đa đoan, sẵn sàng “nhắm mắt đi trên cầu thăng bằng/ nồng nàn/ liều lĩnh” để tìm cho được chân dung của Tình yêu, hay là chân dung thân phận con người.
Ký họa chân dung nhà thơ Thy Nguyên của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Thy Nguyên - Người đàn bà làm thơ buồn

Thơ gắn với buồn từ khi nào, có lẽ từ lúc thơ bắt đầu. Buồn là một phẩm chất của thơ, là một phẩm chất của đời sống con người vốn mong manh hữu hạn, nhiều bất toại hơn như ý. Người cầm bút tìm đến thơ như một cách để cất giấu, lại như một cách để phơi bày nỗi buồn trên mặt giấy. Ðể tìm kiếm một sự đồng cảm, tìm kiếm tri âm. Thy Nguyên là kiểu người làm thơ như vậy, “chơi” với buồn, và “phơi” nỗi buồn, không đắn đo giấu giếm.
Ký họa chân dung nhà thơ Nguyễn Hồng của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Thơ của những xuân thì

Nguyễn Hồng là một cái tên dường như đã quen trong đời sống văn học hiện thời. Chị khá chắc tay trong nhiều thể loại: truyện ngắn, tản văn, thơ. Riêng với thơ, chị đã cho in tập “Ví dụ anh” (2016), và đã đăng rải rác khá nhiều bài thơ lẻ trên các phương tiện truyền thông đại chúng. Một dáng vóc thơ dần được định hình...
Minh họa trang thơ: ĐẶNG TIẾN

Trang thơ

Nhân Dân hằng tháng xin giới thiệu cùng độc giả trang thơ Tết.
Ký họa chân dung nhà thơ Phùng Khắc Bắc của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường

Phùng Khắc Bắc, "Một chấm xanh"

Vào quãng năm đầu thập kỷ chín mươi của thế kỷ trước, khi đang làm nghiên cứu sinh ở Đại học Sư phạm Hà Nội, tôi thấy trong văn giới xôn xao bàn tán về một tài thơ rất lạ mới có 47 tuổi vừa mới khuất. Đó là nhà thơ Phùng Khắc Bắc, tác giả tập thơ duy nhất mang tên “Một chấm xanh” do NXB Quân đội nhân dân phát hành cuối năm 1991.
Ký họa chân dung nhà thơ Nguyễn Hoàng Sơn của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Nguyễn Hoàng Sơn, thơ viết cho thiếu nhi và...

Bạn đọc yêu thơ ngay từ thập niên 80 của thế kỷ XX đã biết đến một cây bút viết thơ cho thiếu nhi mang tên Nguyễn Hoàng Sơn. Lúc ấy, thơ viết cho thiếu nhi nổi bật nhất vẫn là một số cây bút quen thuộc, thế hệ đàn anh như Võ Quảng, Phạm Hổ, Định Hải... Cái tên Nguyễn Hoàng Sơn cùng vài cây bút thế hệ anh như Phạm Đình Ân, Trương Hữu Lợi, Mai Văn Hai... mới bắt đầu thấp thoáng.
Ký họa chân dung thi sĩ Văn Cao của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Văn Cao: "Ngày đêm làm ngọc"

Trong các ấn phẩm về thơ Văn Cao đã xuất bản, chỉ thấy chừng chưa đến mươi bài thơ được viết từ năm 1939 đến năm 1942.
Ký họa chân dung nhà thơ Nguyễn Thị Thúy Hạnh của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Nguyễn Thị Thúy Hạnh: Làm thơ, làm chữ

Trong số những nhà thơ trẻ (xuất hiện ở độ tuổi dưới 35) hiện nay, có một số cây bút rất quan tâm đến việc đổi mới thơ theo cách bắt đầu bằng việc dụng chữ, làm chữ, biến/đổi chữ. Nguyễn Thị Thúy Hạnh là một cây bút như vậy, ngay từ đầu, nhất quán và công khai tư duy về chữ, “di chữ”, “sống lời”, đã xác lập một quan niệm về thơ lấy chữ/ngôn ngữ làm trung tâm.
Ký họa chân dung nhà thơ Phạm Công Trứ của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Nhà thơ Phạm Công Trứ: Tựa vào những câu thơ hay

Trong truyền thống, nhất là với thơ trung đại, người đọc thơ thường hay chú ý đến những câu chữ được coi là tuyệt bút trong bài: những “nhãn tự”, “thần cú”... Cách nhìn này, khi bước sang văn học hiện đại vẫn được chú ý, nhưng không còn là duy nhất, cuối cùng.
Ký họa chân dung nhà thơ Bạch Diệp của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường

Nỗi đồng vọng xôn xao

Quan sát những người “dính” vào chốn thơ, thấy họ làm thơ với rất nhiều động cơ khác nhau. Những động cơ ấy có khi rõ rệt, có khi mơ hồ; có khi thiết thực, có khi lại vu vơ; có thể người thơ ý thức rõ công việc mình làm, có khi cứ viết như một thôi thúc bên trong không cưỡng được...
Ký họa chân dung nhà thơ Trần Lê Khánh của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Say mê và kiên trì với thơ tối giản

Trong khoảng thời gian ngắn, nhà thơ Trần Lê Khánh công bố đều đặn mỗi năm một tập thơ. Tại NXB Hội Nhà văn: “Lục bát múa” (2016), “Dòng sông không vội” (2017), “Ngày như chiếc lá” (2018), “Giọt nắng tràn ly” (2019), “Xứ - rung một ngọn mây” (2020). Tại NXB White Pine Press (Hoa Kỳ): “The beginning of water”. Một gia tài thi ca đáng kể, ít ra là về mặt số/ khối lượng.
Minh họa trang thơ: Nguyễn Quang Thiều

Ở phía ấy...

NGUYỄN PHONG VIỆT

Ở phía ấy là mùi hương và hơi ấm ruộng vườn...