Nhà thơ & Bài thơ hay

Phạm Thị Ngọc Liên: Người đi tìm chân dung tình yêu

Tròn 20 năm, nữ thi sĩ Phạm Thị Ngọc Liên mới trở lại thi đàn bằng tập thơ dày dặn mang tên “Trong tôi có nhiều tôi” (Nhà xuất bản Hội Nhà văn). 99 bài thơ kết thành một “con đường thơ” với biển chỉ đường là “Tình yêu”. Phải, tất cả đều là thơ Tình, của một người đàn bà hồn nhiên, đa đoan, sẵn sàng “nhắm mắt đi trên cầu thăng bằng/ nồng nàn/ liều lĩnh” để tìm cho được chân dung của Tình yêu, hay là chân dung thân phận con người.
Ký họa chân dung nhà thơ Phạm Thị Ngọc Liên của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.
Ký họa chân dung nhà thơ Phạm Thị Ngọc Liên của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Tình yêu, thời nào và ở đâu cũng vậy, là một chủ đề lớn trong nghệ thuật nói chung và thi ca nói riêng. Đối với những người phụ nữ cầm bút, dường như tiếng nói về Tình yêu chiếm vị trí quan trọng hơn, ít nhất là với trường hợp Phạm Thị Ngọc Liên. Để vẽ chân dung đời sống này, với mọi cung bậc, sắc thái, chị biến mình thành kẻ dò đường trong biển rộng Tình yêu. Từ đó thấm thía những hạnh phúc, khổ đau để nhận diện những bài học cuộc đời và để điềm nhiên yêu thương cuộc đời như một lựa chọn sống.

Tập thơ “Trong tôi có nhiều tôi” được chia thành 5 phần, giống như 5 mảnh ghép gồm những “cái tôi” khác nhau để tạo nên một “cái tôi phổ quát” Phạm Thị Ngọc Liên. Cảm giác như, tập thơ là một cuốn phim quay chậm về hình ảnh người đàn bà yêu, bắt đầu từ những cảm xúc của thời tuổi trẻ hồn nhiên nhiều khát khao ước vọng, nhiều mơ mộng và chờ đợi. Những câu thơ của Phạm Thị Ngọc Liên dìu chúng ta về lại thời hoa đỏ, về lại những năm tháng rạo rực thanh xuân: “Chỉ có biển và em/ Cùng hát lời ân ái/ Ngực tròn như đồi trăng/ Thả ánh vàng xuống đáy” (Trăng và biển), “Em đi đâu hỡi người đàn bà mùa hạ/ trên môi hé nụ cười một mình” (Tháng Tư, một ngày nắng gắt).

Một “cái tôi” khờ dại, chỉ muốn được ủ ấm trong vòng tay của tình yêu, như con sóc nhỏ chạy thênh thang trong khu vườn ngợp ngời hoa lá. “Hôn em đi/ trong tia nắng bình minh còn ủ kín bên kia bầu trời/ nụ hoa còn say giấc” (Ngày yêu), “Đi cùng ngọn gió ban trưa/ bắt đầu nồng nàn như nụ hôn thơm mùi cây trái (Sông và vườn). Phạm Thị Ngọc Liên tự nhận mình là người đàn bà có “trái tim bướng bỉnh”, “người đàn bà có trái tim ngốc nghếch/ ôm vào lòng những thèm muốn trẻ con” (Cảm giác).

Mảnh ghép cái tôi thời thanh xuân trong thơ Phạm Thị Ngọc Liên mang cho người đọc thật nhiều cảm xúc, khiến cho mỗi chúng ta bỗng nhiên muốn quay về hoài niệm quá khứ một thời ai cũng có. Những trong veo buổi đầu khi ta bắt đầu dò tìm ý nghĩa đời sống bằng những ngọt ngào của Tình yêu. Bằng những run rẩy của người thiếu nữ: “Ừ thì cứ tháo đôi giày đỏ dưới chân/ để cỏ mềm ve vuốt/ như gỡ xuống vầng mặt trời nóng rát thả vào ly nước chanh/ như tiếng chuông điện thoại của anh/ đột ngột réo rắt” (Tháng Tư, một ngày nắng gắt).

Nhưng rồi những thước phim dẫn ta đến một mảnh ghép khác, khi theo chân người đàn bà thơ bước qua mùa hạ. Những bài thơ bắt đầu nhuốm nỗi buồn, như người bộ hành vai áo bắt đầu nhuốm bụi đường. Bức chân dung tình yêu như những gam mầu sáng tối hiển lộ, như cuộc đời với mọi vui buồn, khổ đau tuyệt vọng hiển lộ. Nào phải chỉ có mưa đầu mùa, mà cả nước mắt đã rơi: “Chạm vào trái tim của anh/ một lần rồi bốc cháy/ em sá gì nỗi đau tan tành/ sá gì ngày mai lãng quên/ sá gì sự chết” (Mai).

Ai đó nói rằng, phía bên kia của Tình yêu là khổ đau. Dấn thân vào tình yêu là dấn thân vào khổ đau. Nhân vật trữ tình trong thơ Phạm Thị Ngọc Liên sau khi đi qua những ngọt ngào thời áo xanh, trong một góc tối nào đó của mùa thu dần tới “Ngồi đếm nỗi buồn của mình/ qua lá cây”. Đó là khi những sắc màu trên bức chân dung tình yêu bắt đầu nổi sóng, ít nhiều làm tan hoang những mộng mị: “Chỗ nằm ấy đã có người/ hãy mời em ly nước muộn/ ngoài kia trời vẫn sương” (Muộn).

Người ta đến với tình yêu để hạnh phúc, hay là để mang vết thương? Nào ai có thể trả lời rành rẽ câu hỏi ấy, ngay cả thi sĩ. Thơ là nhật ký của tâm hồn, của cảm xúc, là tiếng nói thật thà của trái tim, là phút người cầm bút tự “soi gương” chính mình. Những vết sẹo buồn làm sao tránh được và làm sao không thể không viết ra, nhất là với một thái độ “sá gì” của nữ thi sĩ như chị từng xác quyết.

Tình yêu của người đàn bà trong thơ Phạm Thị Ngọc Liên có áp thấp, có mưa và có giông bão: “Im lặng/ biết rằng giông bão vẫn còn ẩn nấp đâu đó/ đốm lửa chực bùng lên/ nỗi đau sẽ kéo dài vô tận/ nếu như mình thốt nên lời”. Tự biết để rồi tự hát, tự vực mình dậy sau những cơn đau bằng điềm nhiên: “Tình yêu như bông hoa nở ngoài vệ cỏ/ cứ rực rỡ tỏa hương không tị hiềm mình đang ở đâu/ không e sợ bàn chân ai vô tình giẫm phải” (Áp thấp). Để rồi một hôm nào đó: “Ngồi thụp ở vệ cỏ ven đường/ bàn tay đặt trên nền đất đỏ/ rưng rưng như nhặt trái tim mình/ đã nở thành hoa” (Tôi muốn kêu lên mà quá ngạt).

Càng về sau, cuốn phim tình yêu mà Phạm Thị Ngọc Liên bày ra ở “Trong tôi có nhiều tôi” càng chất chứa nỗi niềm. Phủ lên gương mặt người đàn bà thơ là sắc thái của mùa thu, của không gian chiêm nghiệm. Sau những kiếm tìm, người thơ như đang vẽ nốt những đường nét của bức chân dung tình yêu. Phút đốn ngộ khiến nàng nhận ra: “Ở trong quãng tối và quãng sáng/ cám ơn anh đã giúp em nhìn rõ cuộc đời/ và chân dung tình yêu... Người đến bên người bằng lừa lọc đã quen/ cám ơn anh đã không tráo trở phút đầu tiên/ nên em có một khoảng lớn thời gian nhầm lẫn..”(Kết thúc một tác quyền), để rồi chọn một thái độ sống: “Vì tình yêu vĩnh cửu/ vẫn xin cám ơn đời/ cám ơn anh”.

Khổ đau, bi lụy trong tình yêu- đàn bà ai cũng có, tôi nghĩ vậy. Người đàn bà trong thơ tình Phạm Thị Ngọc Liên không ít lần trái tim rớm máu, nhưng họ đến và đi trong tình yêu luôn bằng thái độ tận hiến, thành thật như ngọn nến đốt cạn mình để sáng. Họ đã trồng hoa lên những thương đau và luôn mạnh mẽ, bao dung: “Đường rụng đầy bi kịch/ tôi còn thênh thang đi” (Và mênh mang tiếng ca), “Ra đi không phải bỏ lại những hối tiếc về một chặng đường/ hay giẫm đạp về một chặng đường/ ta đã trồng hoa trên đó” (Ra đi).

Và tôi nghĩ, chỉ riêng một thái độ yêu như vậy thôi, Phạm Thị Ngọc Liên đã có thật nhiều tri âm.

“Trong tôi có nhiều tôi” phần lớn là thơ tự do, thể hiện một tư duy khoáng đạt của người cầm bút. Phạm Thị Ngọc Liên không chịu gò mình trong cách thể hiện, chống lại những khúc thức để tự hát lên bài ca đàn bà trong sâu thẳm bản năng chính mình. Thơ chị giàu cảm xúc nhưng vẫn luôn có được một sự tỉnh táo cần thiết, không sa đà vào dễ dãi hay làm quá. Một thái độ dám sống, dám chấp nhận trả giá thật không dễ tìm thấy trong thơ nữ hiện nay. Như câu thơ chị viết: “Đôi khi những câu thơ của tôi đi lạc vào con tim lạnh giá của ai đó/ và u uẩn đóng thành băng/ tôi chấp nhận cái chết bất ngờ của mình/ như chấp nhận một câu hát/ một ly rượu..”(Khoảnh khắc).

Nhân Dân hằng tháng trân trọng giới thiệu hai bài thơ tiêu biểu của nhà thơ Phạm Thị Ngọc Liên

Vĩ thanh

Trong tôi có nhiều tôi
Một tôi hay cười một tôi hay khóc

Tôi cười với đám đông
Tôi khóc một mình

Còn một tôi im lặng
Một tôi là chiếc bóng theo tôi

Tôi gom nhiều tôi thành một tôi
Nhiều lần ngồi đếm và tự hỏi

Tôi nhiều tôi vậy
Mà sao một mình?...

Minh họa | NGUYỄN MINH

Minh họa | NGUYỄN MINH

Sen em

Sen
chọn một mùa nắng nhất để nở
như em chọn anh để yêu
biết rằng sẽ có ngày khát cháy

chỉ cần một khoảnh khắc nở bừng
gì phút giây tàn tạ
em tỏa hương như sen
ở bến bờ anh

khắc nghiệt và hân hoan
anh trao cho em cơn run mê đắm
mưa trao cho sen một buổi chiều ướt đẫm
rồi yên lặng quay đi

chọn một mùa nắng nhất để nở
sen một mình thơm
chọn anh để yêu
em một mình hạnh phúc

dẫu mai này ra sao...

Có thể bạn quan tâm

Ký họa chân dung nhà thơ Vi Thùy Linh của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Vi Thùy Linh và hành trình vượt lên chính mình

Tính từ bài thơ đầu tiên viết năm 15 tuổi (tháng 9/1995), sau này được đưa vào tập thơ đầu tay (Khát, NXB Hội Nhà văn, 1999), Vi Thùy Linh đã có một hành trình sáng tác 30 năm với 7 tập thơ. 30 năm trôi đi gắn với bao đổi thay, biến động trong đời sống, thiếu nữ Vi Thùy Linh đã là bà mẹ hai con.

Ký họa chân dung nhà thơ Trần Nhật Minh của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Trần Nhật Minh - Thơ và những cuộc du chơi

Đã từng làm việc ở Ban Văn học - Nghệ thuật - Âm nhạc, Đài Tiếng nói Việt Nam, Trần Nhật Minh quen biết, giao du với nhiều văn nghệ sĩ. Minh không chơi thì thôi, đã chơi thì luôn hết lòng với bạn.

Ký họa chân dung nhà thơ Nguyễn Hùng Vĩ của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

“Em đem mùa hạ rót vào mùa đông”

Những đêm mùa đông chờ Xuân, nơi căn phòng nhỏ ấm, lũ sinh viên nghèo lại quây quần quanh thầy Nguyễn Hùng Vĩ, giảng viên Khoa Ngữ văn, Trường đại học Tổng hợp Hà Nội (cũ), một ông giáo hồn hậu, quê nghèo lam lũ xứ Nghệ, luôn trọng nghĩa trọng tình.

Nhà thơ Vân Anh.

Thơ Vân Anh “mặc định nhịp trẻ”

Dễ thấy lâu nay, người viết khi cho in tuyển tập đồng nghĩa với việc gom lại, khép lại quá trình sáng tác. Nhưng cũng có người sau đó vẫn tiếp tục xuất bản tác phẩm, không phải “út, ít” bòn mót, mà là những “đứa con” bụ bẫm, khỏe mạnh, ai cũng tấm tắc, trầm trồ.

Ký họa chân dung nhà thơ Trần Hoàng Thiên Kim của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Vì yêu mà thao thức

Trần Hoàng Thiên Kim là cái tên không xa lạ với công chúng ở các lĩnh vực báo chí, truyền hình, nghiên cứu văn học hay thơ ca.

Ký họa chân dung nhà thơ Ngô Thanh Vân của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Em và phố và thơ

Ai đó đã từng nói: thơ là bản tự thuật của tâm hồn. Thật thế. Ngoài đời, con người có thể phần nào che giấu được mình, nhưng trong thơ thì không.
Ký họa chân dung nhà thơ Phùng Thị Hương Ly của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Cõng lời thương trên lưng

Nữ nhà thơ Phùng Thị Hương Ly sinh ra và lớn lên ở Bắc Kạn, người Tày, học ngành viết văn, sau ra trường làm báo, hiện sống và viết tại quê hương. Một phác thảo lai lịch như thế cho thấy hai điểm quan trọng: người thơ ấy có một vốn liếng hết sức tự nhiên, sống động về nơi chốn mình, dân tộc mình và được đào tạo bài bản trong môi trường viết.
Ký họa chân dung nhà thơ Huỳnh Thúy Kiều của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

NỒNG NÃ HƯƠNG VỊ MIỀN CHÂU THỔ CHÍN RỒNG

Nhà thơ Huỳnh Thúy Kiều sinh ra và lớn lên ở chính giữa lòng châu thổ Cửu Long. Hiện chị cũng sống và viết tại đây. Như thế, tức là cả đời “ăn chịu” quê hương, xứ sở. Như nắng như gió, như đất như cây, như điệu ca vọng cổ, thơ Huỳnh Thúy Kiều cứ thế cất lên tự nhiên, đậm hương, nồng vị và lan tỏa.
Ký họa chân dung nhà thơ Đào Quốc Minh của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Một phác thảo thơ Ðào Quốc Minh

Những năm gần đây, cái tên Đào Quốc Minh trở nên khá quen thuộc trong văn giới và bạn đọc. Anh viết và xuất bản đã có đến năm sáu tập thơ; tập gần đây nhất là “Phục sinh” (Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2024) với dung lượng khá lớn, 180 bài.
Ký họa chân dung nhà thơ Nguyễn Thị Hồng Ngát của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

“Quả thơm thì ở lại”

Người ta vẫn thường hay nói nhà thơ không có tuổi. Đó là một cách nói vui, lãng mạn, nghiêng về phía an ủi nhau. Thật ra, ai cũng vậy thôi, nhà thơ cũng như tất thảy chúng sinh, không tránh khỏi quy luật của tự nhiên. Tất thảy chúng ta già dần dần, đi theo quy luật của muôn đời: sinh, lão, bệnh, tử… không thể khác.
Ký họa chân dung nhà thơ Trần Kim Hoa của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Thơ của những ký ức cất lời

Trần Kim Hoa làm thơ dễ đã 30 năm có lẻ. Và đã ra được 3 tập thơ riêng đầy đặn, trong đó tập Bên trời gần đây nhất đã được trao Giải thưởng thường niên của Hội Nhà văn Việt nam (2020). Trong vòng ngần ấy thời gian, với 3 tập thơ, cho thấy tác giả không phải là người ham chạy theo số lượng.
Ký họa chân dung nhà thơ Đoàn Văn Mật của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

“Sáng lên từ những nhỏ nhoi”

Cho đến nay, Đoàn Văn Mật đã trình làng ba tập thơ, tập gần đây nhất là “ Ngoài mây trời đầy trống vắng ” (NXB Hội Nhà văn, 2023).
Ký họa chân dung nhà thơ Kiều Maily của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Thơ, hoa của người

Trong bài thơ mang tên “Nàng, hoa của cát” (đồng thời cũng được lấy làm tên cho tập thơ, NXB Hội nhà văn, 2019), nhà thơ Kiều Maily đã có những câu thơ như thể tự họa về mình: Nàng, hoa của cát/ yếu đuối giữa men tình/ kiêu hãnh với cô đơn/ nỗi mơ cuốn nàng về miền hạnh phúc/ Nàng, hương của đất/ chắt chiu giọt phù sa nuôi nấng đời cây/ hẹn mùa gieo hạt. Bài thơ có ba chủ thể: nàng, hoa và cát trong mối quan hệ gắn bó, ràng rịt với nhau.
Ký họa chân dung nhà thơ Trần Ngọc Mỹ của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Nhủ lòng vượt lên những phôi pha

Một người làm thơ trẻ thông thường hay lựa chọn một cách thế sống cùng, sống giữa, đồng hành với thế hệ mình và với đời sống hôm nay trong tất cả sự bề bộn, phức tạp và sống động của nó.
Ký họa chân dung nhà thơ Thy Nguyên của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Thy Nguyên - Người đàn bà làm thơ buồn

Thơ gắn với buồn từ khi nào, có lẽ từ lúc thơ bắt đầu. Buồn là một phẩm chất của thơ, là một phẩm chất của đời sống con người vốn mong manh hữu hạn, nhiều bất toại hơn như ý. Người cầm bút tìm đến thơ như một cách để cất giấu, lại như một cách để phơi bày nỗi buồn trên mặt giấy. Ðể tìm kiếm một sự đồng cảm, tìm kiếm tri âm. Thy Nguyên là kiểu người làm thơ như vậy, “chơi” với buồn, và “phơi” nỗi buồn, không đắn đo giấu giếm.
Ký họa chân dung nhà thơ Nguyễn Hồng của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Thơ của những xuân thì

Nguyễn Hồng là một cái tên dường như đã quen trong đời sống văn học hiện thời. Chị khá chắc tay trong nhiều thể loại: truyện ngắn, tản văn, thơ. Riêng với thơ, chị đã cho in tập “Ví dụ anh” (2016), và đã đăng rải rác khá nhiều bài thơ lẻ trên các phương tiện truyền thông đại chúng. Một dáng vóc thơ dần được định hình...
Minh họa trang thơ: ĐẶNG TIẾN

Trang thơ

Nhân Dân hằng tháng xin giới thiệu cùng độc giả trang thơ Tết.
Ký họa chân dung nhà thơ Phùng Khắc Bắc của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường

Phùng Khắc Bắc, "Một chấm xanh"

Vào quãng năm đầu thập kỷ chín mươi của thế kỷ trước, khi đang làm nghiên cứu sinh ở Đại học Sư phạm Hà Nội, tôi thấy trong văn giới xôn xao bàn tán về một tài thơ rất lạ mới có 47 tuổi vừa mới khuất. Đó là nhà thơ Phùng Khắc Bắc, tác giả tập thơ duy nhất mang tên “Một chấm xanh” do NXB Quân đội nhân dân phát hành cuối năm 1991.
Ký họa chân dung nhà thơ Nguyễn Hoàng Sơn của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Nguyễn Hoàng Sơn, thơ viết cho thiếu nhi và...

Bạn đọc yêu thơ ngay từ thập niên 80 của thế kỷ XX đã biết đến một cây bút viết thơ cho thiếu nhi mang tên Nguyễn Hoàng Sơn. Lúc ấy, thơ viết cho thiếu nhi nổi bật nhất vẫn là một số cây bút quen thuộc, thế hệ đàn anh như Võ Quảng, Phạm Hổ, Định Hải... Cái tên Nguyễn Hoàng Sơn cùng vài cây bút thế hệ anh như Phạm Đình Ân, Trương Hữu Lợi, Mai Văn Hai... mới bắt đầu thấp thoáng.
Ký họa chân dung thi sĩ Văn Cao của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Văn Cao: "Ngày đêm làm ngọc"

Trong các ấn phẩm về thơ Văn Cao đã xuất bản, chỉ thấy chừng chưa đến mươi bài thơ được viết từ năm 1939 đến năm 1942.
Ký họa chân dung nhà thơ Nguyễn Thị Thúy Hạnh của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Nguyễn Thị Thúy Hạnh: Làm thơ, làm chữ

Trong số những nhà thơ trẻ (xuất hiện ở độ tuổi dưới 35) hiện nay, có một số cây bút rất quan tâm đến việc đổi mới thơ theo cách bắt đầu bằng việc dụng chữ, làm chữ, biến/đổi chữ. Nguyễn Thị Thúy Hạnh là một cây bút như vậy, ngay từ đầu, nhất quán và công khai tư duy về chữ, “di chữ”, “sống lời”, đã xác lập một quan niệm về thơ lấy chữ/ngôn ngữ làm trung tâm.
Ký họa chân dung nhà thơ Phạm Công Trứ của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Nhà thơ Phạm Công Trứ: Tựa vào những câu thơ hay

Trong truyền thống, nhất là với thơ trung đại, người đọc thơ thường hay chú ý đến những câu chữ được coi là tuyệt bút trong bài: những “nhãn tự”, “thần cú”... Cách nhìn này, khi bước sang văn học hiện đại vẫn được chú ý, nhưng không còn là duy nhất, cuối cùng.
Ký họa chân dung nhà thơ Bạch Diệp của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường

Nỗi đồng vọng xôn xao

Quan sát những người “dính” vào chốn thơ, thấy họ làm thơ với rất nhiều động cơ khác nhau. Những động cơ ấy có khi rõ rệt, có khi mơ hồ; có khi thiết thực, có khi lại vu vơ; có thể người thơ ý thức rõ công việc mình làm, có khi cứ viết như một thôi thúc bên trong không cưỡng được...
Ký họa chân dung nhà thơ Trần Lê Khánh của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Say mê và kiên trì với thơ tối giản

Trong khoảng thời gian ngắn, nhà thơ Trần Lê Khánh công bố đều đặn mỗi năm một tập thơ. Tại NXB Hội Nhà văn: “Lục bát múa” (2016), “Dòng sông không vội” (2017), “Ngày như chiếc lá” (2018), “Giọt nắng tràn ly” (2019), “Xứ - rung một ngọn mây” (2020). Tại NXB White Pine Press (Hoa Kỳ): “The beginning of water”. Một gia tài thi ca đáng kể, ít ra là về mặt số/ khối lượng.