Thơ Vân Anh “mặc định nhịp trẻ”

Dễ thấy lâu nay, người viết khi cho in tuyển tập đồng nghĩa với việc gom lại, khép lại quá trình sáng tác. Nhưng cũng có người sau đó vẫn tiếp tục xuất bản tác phẩm, không phải “út, ít” bòn mót, mà là những “đứa con” bụ bẫm, khỏe mạnh, ai cũng tấm tắc, trầm trồ.

Nhà thơ Vân Anh.
Nhà thơ Vân Anh.

Trường hợp nhà thơ Vân Anh, sau khi cho ra đời Vân Anh - Tuyển tập thơ (2023) và ngay sau đó ra mắt Trầm tích thời gian (2025) là một thí dụ rõ nét.

Khi đọc bản thảo tập thơ Trầm tích thời gian, tôi vừa được đọc bài giới thiệu khá công phu của PGS, TS nhà văn Đinh Trí Dũng, lại vừa có dịp đọc lại những bài thơ từng in trên báo chí văn nghệ, trên facebook..., nghĩa là đọc hệ thống, căn cơ, thật sự đọc và ngẫm về một tác giả từng trải, về một tạng thơ nữ mạnh mẽ, bao dung, một cá tính thơ đầy khát khao, dâng hiến, một ngòi bút tìm tòi không có tuổi.

Tôi đã có dịp đọc gần như trọn vẹn cả 9 tập thơ của nhà thơ Vân Anh, từng sống và sáng tác trong ngôi nhà chung Văn nghệ Nghệ Tĩnh rồi Nghệ An, hiểu rõ từng “chân tơ, kẽ tóc” của câu thơ, bài thơ, của từng bước chuyển, bước đi trong cuộc sống thường ngày. Để rồi, tôi lại thấy, kể từ tập thơ đầu tiên in chung Hương thơm, cỏ vắng (1987) cho đến Trầm tích thời gian (2025), thơ Vân Anh vẫn là con sóng tình yêu đầu tiên, là “con sóng khát” (1) đêm đêm vỗ bờ đó, là dòng chảy thao thiết trong hơn và đục hơn, nhanh hơn và chậm hơn, bề mặt như bình yên hơn nhưng đáy lòng dữ dội một cách kín lắng hơn.

Thì đây, một người thơ qua bao năm tháng buồn vui, qua bao gập ghềnh, trắc trở, trải bao trầm-tích-thời-gian mà ngòi bút thơ, tấm lòng thơ vẫn thấy mình ở thuở ban đầu, ở bước yêu, bước thơ đầu tiên. Điều đó được nhà thơ viết ra như một định đề, một tuyên ngôn của thơ mình:

Còn những tâm hồn lạ

Rất quen ở quanh ta

Còn đất trời bao la

Bao nhiêu điều hoang hóa.

(Khám phá)

Vẫn là nhịp đập đầu tiên, dù đã trải qua biết bao bến bờ lở bồi, đầy vơi:

Ước gì trái tim người là băng trắng

Ta ghi lời yêu đầu tiên.

(Không đề)

Ước gì trái đất ngừng quay

Cho ta cứ mãi thơ ngây, dại khờ.

(Giọt trầm tư)

Những vỉa, tầng trầm tích tình yêu, trầm tích trái tim cứ thế hiện ra với những nét chân dung “mặc định”:

Sao trái tim yêu mặc định nhịp trẻ

Sao tâm hồn cứ đong đầy khát mê”

(Giọt trầm tư)

Tôi từng đọc thấy người thơ viết cách nay chưa lâu:

Sợ trái tim ta

Con ngựa hoang

Không thuộc bài phi nước kiệu

Tình yêu.

(Sợ) (2)

Đến nay vẫn lại là người ấy, trái tim loạn nhịp ấy dù thời gian và năm tháng mỏi mòn:

Mùa thu nhốt chặt trái tim

Ngựa hoang quen thói đi tìm rừng xanh.

(Lục bát trái tim mùa thu)

Trái tim không đi đường quang lại chọn lối hoang.

(Thư ta gửi người)

Và hình thành một cặp mâu thuẫn: khát khao tìm mới lạ ấy như một sự chung thủy dài lâu. Thêm một vỉa, tầng nữa của chiều sâu không dễ thấy:

Ta luôn bị trái tim dắt vào miền đất lạ

Lần nào cũng mong người đứng đợi từ lâu.

(Thư ta gửi người)

Người thơ xưa nay “yêu thì nói là yêu”, chưa bao giờ biết nói vòng, nói tránh, lúc nào cũng thẳng băng, quyết liệt, nên dù cuộc đời có dâu bể đến đâu thì vẫn luôn Cứ thô mộc bản ngã/Căn cốt của riêng ta/Không cần đeo mặt nạ (Bản ngã). Người thơ hơn một lần khẳng khái Ta muốn sống như chưa hề được sống (Tự bạch), nghĩa là muốn và sẽ sống như đã sống, như mẹ cha đã sinh ra mình, như xứ Phuống chôn rau cắt rốn đã nuôi nấng, nâng bước mình, như nhịp tim yêu đập những nhịp thơ mình, như con sóng khát vỗ tràn năm tháng... Cứ thế, dần dà vỉa, tầng hiện ra, bí ẩn và rõ rành, vút cao rồi sâu thẳm, im lắng rồi vang xa theo nhịp con sóng khát, con sóng reo, con sóng hòa vào thế cuộc, nhân gian...

Đọc và ngẫm nhiều bài thơ trong tập Trầm tích thời gian, vì thế tôi chú ý hơn cả đến bài thơ viết về Bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương, có tên Lỗi nhịp nhân gian. Tất nhiên, “đôi vần tri âm”, mỗi điển tích thơ, mỗi cảm xúc thơ đều tập trung làm đậm hình tượng thơ Hồ Xuân Hương và nhà thơ thành công với cách làm quen thuộc đó:

Tự họa chân dung trác lạ

Tự khoe nõn nường thiếu nữ

Tự ngã “tấm lòng son” giữa “bảy nổi ba chìm...

Nhà thơ nói đến nữ quyền, nói đến khát vọng tình yêu trong thơ Hồ Xuân Hương cũng chính là nói lên khát vọng tình yêu của chính mình, của một người hậu thế “tri âm, tri kỷ”, của người thơ “thơ không son phấn, mấp mô nhịp đời”, của sự đồng cảm, nâng bước, của niềm tin, của nữ quyền trong xã hội mới.

Để lại thấy trong thơ Vân Anh, như những chân dung tự họa với nhiều nét mới, sắc về người phụ nữ, mà người thơ thường nói là “người đàn bà” không chút ngại ngần. Đó là nỗi khát khao, khát vọng vươn tìm của tình yêu, của cuộc đời, của một người đã từng trải với “trái tim hồng chật chội những ước mong”:

Vắt giọt thương từ trái tim làm mẹ

Vắt giọt sẻ chia từ trái tim thi sĩ

Vắt giọt ăn năn của lương tri...

(Dâng nữ sinh tuổi 17)

Mấp mô, khấp khểnh câu hỏi, câu trả lời:

Ta bị xiềng vào đá

Hay đá bị xiềng vào ta

Cả hai khát giấc mơ lạ.

(Bản ngã)

6dec78bae9cb619538da.jpg
Tập thơ Trầm tích thời gian.

Bức chân dung hai mặt song hành tồn tại, biến đổi, chấp chịu và va đập, sẹo lành và mưng mủ:

Tự mình thảnh thơi và tất bật

Tự mình dối trá và chân thật

Tự mình quẳng đi và gom nhặt

Tự mình đong đếm được mất

Tự mình tỏa sáng và lụi tắt.

(Bản ngã)

Đó là người đàn bà bí ẩn Nàng còn một điều chưa nói/Hơn mọi bí mật trên đời (Giọt thầm), là người tự mình rối quẫn Tự mình làm khó trái tim (Tự ru). Hơn nữa, không chỉ nói được, nói hết cho mình mà còn nói hộ, nói to lên để khẳng định mình, giới mình, khẳng định sự thẳm sâu không dễ gì biết được, một sự tự thú vô cùng kiêu hãnh:

Đàn bà miệng hổ, lòng nai.

(Tản mạn đàn bà và đàn ông)

Một đời mẹ oằn vai gánh giang sơn nhà chồng.

(Vọng quê)

Một điều “xưa nay hiếm” mà lại thường tình trong câu chuyện tình mẫu tử:

Có một vòng ôm mẹ luôn độ lượng nhẫn nại chờ ta sau bao lần ngoan cố lạc đường.

(Nhớ về xứ Phuống)

Tôi muốn nói và nói kỹ về một khổ thơ của nhà thơ Vân Anh trong bài Xứ Nghệ:

Những người đàn bà góa

Cô đơn thiêu đốt thịt da đổ lúa ra xay, đổ trấu ra xay

Xay cạn đêm.

Hai câu đầu không cũ, không mới, là chuyện nhiều người biết, nhiều người viết và viết hay trong các khoảnh khắc khác nhau, trạng huống khác nhau của đời sống, của chiến tranh cũng như hòa bình, từ văn học dân gian tới bác học. Đến đây thì dường như ai cũng có thể nhớ đến khung cảnh cô đơn khao khát hay góa bụa mỏi mòn của bao người đàn bà, tình huống “cơm hai bát, bát ăn, bát để, đũa so đôi đứng, đôi nằm” (Thử lòng chung thủy) trong dân ca ví dặm Nghệ-Tĩnh, rồi trong thơ hiện đại nói về người phụ nữ chờ chồng trong chiến tranh “chôn tuổi xuân trong má lúm đồng tiền” (Hữu Thỉnh) hay cụ thể một tình huống gần giống nhà thơ Vân Anh mô tả trên đây, không phải tiếng cối xay, là “Tiếng chày khuya giã trấu” (3) trong thơ Nguyễn Đình Minh từ bối cảnh:

Những cơn mơ bị ép xuống giường

Ép đến cháy thành hơi trên chiếu cói.

Đến cảnh huống cuối cùng:

Những khát khao chắp đến ngàn lần chẳng nối được... một vòng ôm.

Để rồi những người đàn bà không còn cách nào khác, buộc phải gửi “nỗi lòng tê tái” vào những nhịp chày giã trấu đêm:

Vắt những khát thèm chính chuyên ra ngoài thể xác

Những giây phút sống đau hơn chết

Cắn đến bật máu môi, để tắt tiếng cỏ cây lặng lẽ sinh tồn.

Những giây phút “sống đau hơn chết” của người đàn bà đó, không phải ngẫu nhiên được nhiều nhà thơ đồng cảm, sẻ chia và lên tiếng. Nhà thơ Vân Anh từ sự cảm thông, đồng vọng sâu sắc với Hồ Xuân Hương, nhất là khí chất nữ quyền, khao khát tự do nói trên, lại vốn có “trái tim yêu mặc định nhịp trẻ”, người mang trái tim “dâng hiến trăm năm”, buồn vui thành sẹo rồi vẫn cứ “hoài niệm mọc chồi”... thì không thể không nói đến những người đàn bà góa và cảnh huống vốn thường bị giấu nhẹm trước đây.

Với nhà thơ Vân Anh, cảnh huống đó được mở rộng từ “xay lúa” đến “xay trấu”, tức hết lúa thì còn xay cả trấu, mà xay trấu thì... thương đến kiệt cùng thương! Câu kết khổ thơ “Xay cạn đêm” là một câu thơ hay, bất ngờ và chí lý với chỉ ba từ ngỡ cụt ngủn mà dằng dặc đớn đau.

Thơ Vân Anh, điểm mạnh thấy rõ lâu nay chính là ở chỗ kiệm lời, gọn sắc để tạo tứ khác biệt, riêng có. Tập thơ Trầm tích thời gian hiện ra nhiều lớp “trầm tích” quý, có thể dễ thấy, cũng có thể khó thấy nhưng nhất quán về cá tính sáng tạo, về tư tưởng và những nét riêng, nét mới không lẫn vào bất cứ ai. Ấy là một người thơ luôn sống và viết “mặc định nhịp trẻ”, bằng cách “xay cạn đêm” đầy khát khao, đầy bản ngã.

_____________

(1) Tên một tập thơ của Vân Anh: Con sóng khát, NXB Hội Nhà văn, 2009.

(2) Thơ Vân Anh trong Tuyển thơ Nghệ An 10 năm đầu thế kỷ XXI, NXB Nghệ An, 2010.

(3) Thơ Nguyễn Đình Minh trong Thơ thế giới-Thế giới thơ, NXB Hội Nhà văn, 2023.

Có thể bạn quan tâm

Ký họa chân dung nhà thơ Nguyễn Hùng Vĩ của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

“Em đem mùa hạ rót vào mùa đông”

Những đêm mùa đông chờ Xuân, nơi căn phòng nhỏ ấm, lũ sinh viên nghèo lại quây quần quanh thầy Nguyễn Hùng Vĩ, giảng viên Khoa Ngữ văn, Trường đại học Tổng hợp Hà Nội (cũ), một ông giáo hồn hậu, quê nghèo lam lũ xứ Nghệ, luôn trọng nghĩa trọng tình.

Ký họa chân dung nhà thơ Trần Hoàng Thiên Kim của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Vì yêu mà thao thức

Trần Hoàng Thiên Kim là cái tên không xa lạ với công chúng ở các lĩnh vực báo chí, truyền hình, nghiên cứu văn học hay thơ ca.

Ký họa chân dung nhà thơ Ngô Thanh Vân của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Em và phố và thơ

Ai đó đã từng nói: thơ là bản tự thuật của tâm hồn. Thật thế. Ngoài đời, con người có thể phần nào che giấu được mình, nhưng trong thơ thì không.
Ký họa chân dung nhà thơ Phùng Thị Hương Ly của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Cõng lời thương trên lưng

Nữ nhà thơ Phùng Thị Hương Ly sinh ra và lớn lên ở Bắc Kạn, người Tày, học ngành viết văn, sau ra trường làm báo, hiện sống và viết tại quê hương. Một phác thảo lai lịch như thế cho thấy hai điểm quan trọng: người thơ ấy có một vốn liếng hết sức tự nhiên, sống động về nơi chốn mình, dân tộc mình và được đào tạo bài bản trong môi trường viết.
Ký họa chân dung nhà thơ Huỳnh Thúy Kiều của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

NỒNG NÃ HƯƠNG VỊ MIỀN CHÂU THỔ CHÍN RỒNG

Nhà thơ Huỳnh Thúy Kiều sinh ra và lớn lên ở chính giữa lòng châu thổ Cửu Long. Hiện chị cũng sống và viết tại đây. Như thế, tức là cả đời “ăn chịu” quê hương, xứ sở. Như nắng như gió, như đất như cây, như điệu ca vọng cổ, thơ Huỳnh Thúy Kiều cứ thế cất lên tự nhiên, đậm hương, nồng vị và lan tỏa.
Ký họa chân dung nhà thơ Đào Quốc Minh của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Một phác thảo thơ Ðào Quốc Minh

Những năm gần đây, cái tên Đào Quốc Minh trở nên khá quen thuộc trong văn giới và bạn đọc. Anh viết và xuất bản đã có đến năm sáu tập thơ; tập gần đây nhất là “Phục sinh” (Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2024) với dung lượng khá lớn, 180 bài.
Ký họa chân dung nhà thơ Nguyễn Thị Hồng Ngát của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

“Quả thơm thì ở lại”

Người ta vẫn thường hay nói nhà thơ không có tuổi. Đó là một cách nói vui, lãng mạn, nghiêng về phía an ủi nhau. Thật ra, ai cũng vậy thôi, nhà thơ cũng như tất thảy chúng sinh, không tránh khỏi quy luật của tự nhiên. Tất thảy chúng ta già dần dần, đi theo quy luật của muôn đời: sinh, lão, bệnh, tử… không thể khác.
Ký họa chân dung nhà thơ Trần Kim Hoa của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Thơ của những ký ức cất lời

Trần Kim Hoa làm thơ dễ đã 30 năm có lẻ. Và đã ra được 3 tập thơ riêng đầy đặn, trong đó tập Bên trời gần đây nhất đã được trao Giải thưởng thường niên của Hội Nhà văn Việt nam (2020). Trong vòng ngần ấy thời gian, với 3 tập thơ, cho thấy tác giả không phải là người ham chạy theo số lượng.
Ký họa chân dung nhà thơ Đoàn Văn Mật của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

“Sáng lên từ những nhỏ nhoi”

Cho đến nay, Đoàn Văn Mật đã trình làng ba tập thơ, tập gần đây nhất là “ Ngoài mây trời đầy trống vắng ” (NXB Hội Nhà văn, 2023).
Ký họa chân dung nhà thơ Kiều Maily của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Thơ, hoa của người

Trong bài thơ mang tên “Nàng, hoa của cát” (đồng thời cũng được lấy làm tên cho tập thơ, NXB Hội nhà văn, 2019), nhà thơ Kiều Maily đã có những câu thơ như thể tự họa về mình: Nàng, hoa của cát/ yếu đuối giữa men tình/ kiêu hãnh với cô đơn/ nỗi mơ cuốn nàng về miền hạnh phúc/ Nàng, hương của đất/ chắt chiu giọt phù sa nuôi nấng đời cây/ hẹn mùa gieo hạt. Bài thơ có ba chủ thể: nàng, hoa và cát trong mối quan hệ gắn bó, ràng rịt với nhau.
Ký họa chân dung nhà thơ Trần Ngọc Mỹ của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Nhủ lòng vượt lên những phôi pha

Một người làm thơ trẻ thông thường hay lựa chọn một cách thế sống cùng, sống giữa, đồng hành với thế hệ mình và với đời sống hôm nay trong tất cả sự bề bộn, phức tạp và sống động của nó.
Ký họa chân dung nhà thơ Phạm Thị Ngọc Liên của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Phạm Thị Ngọc Liên: Người đi tìm chân dung tình yêu

Tròn 20 năm, nữ thi sĩ Phạm Thị Ngọc Liên mới trở lại thi đàn bằng tập thơ dày dặn mang tên “Trong tôi có nhiều tôi” (Nhà xuất bản Hội Nhà văn). 99 bài thơ kết thành một “con đường thơ” với biển chỉ đường là “Tình yêu”. Phải, tất cả đều là thơ Tình, của một người đàn bà hồn nhiên, đa đoan, sẵn sàng “nhắm mắt đi trên cầu thăng bằng/ nồng nàn/ liều lĩnh” để tìm cho được chân dung của Tình yêu, hay là chân dung thân phận con người.
Ký họa chân dung nhà thơ Thy Nguyên của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Thy Nguyên - Người đàn bà làm thơ buồn

Thơ gắn với buồn từ khi nào, có lẽ từ lúc thơ bắt đầu. Buồn là một phẩm chất của thơ, là một phẩm chất của đời sống con người vốn mong manh hữu hạn, nhiều bất toại hơn như ý. Người cầm bút tìm đến thơ như một cách để cất giấu, lại như một cách để phơi bày nỗi buồn trên mặt giấy. Ðể tìm kiếm một sự đồng cảm, tìm kiếm tri âm. Thy Nguyên là kiểu người làm thơ như vậy, “chơi” với buồn, và “phơi” nỗi buồn, không đắn đo giấu giếm.
Ký họa chân dung nhà thơ Nguyễn Hồng của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Thơ của những xuân thì

Nguyễn Hồng là một cái tên dường như đã quen trong đời sống văn học hiện thời. Chị khá chắc tay trong nhiều thể loại: truyện ngắn, tản văn, thơ. Riêng với thơ, chị đã cho in tập “Ví dụ anh” (2016), và đã đăng rải rác khá nhiều bài thơ lẻ trên các phương tiện truyền thông đại chúng. Một dáng vóc thơ dần được định hình...
Minh họa trang thơ: ĐẶNG TIẾN

Trang thơ

Nhân Dân hằng tháng xin giới thiệu cùng độc giả trang thơ Tết.
Ký họa chân dung nhà thơ Phùng Khắc Bắc của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường

Phùng Khắc Bắc, "Một chấm xanh"

Vào quãng năm đầu thập kỷ chín mươi của thế kỷ trước, khi đang làm nghiên cứu sinh ở Đại học Sư phạm Hà Nội, tôi thấy trong văn giới xôn xao bàn tán về một tài thơ rất lạ mới có 47 tuổi vừa mới khuất. Đó là nhà thơ Phùng Khắc Bắc, tác giả tập thơ duy nhất mang tên “Một chấm xanh” do NXB Quân đội nhân dân phát hành cuối năm 1991.
Ký họa chân dung nhà thơ Nguyễn Hoàng Sơn của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Nguyễn Hoàng Sơn, thơ viết cho thiếu nhi và...

Bạn đọc yêu thơ ngay từ thập niên 80 của thế kỷ XX đã biết đến một cây bút viết thơ cho thiếu nhi mang tên Nguyễn Hoàng Sơn. Lúc ấy, thơ viết cho thiếu nhi nổi bật nhất vẫn là một số cây bút quen thuộc, thế hệ đàn anh như Võ Quảng, Phạm Hổ, Định Hải... Cái tên Nguyễn Hoàng Sơn cùng vài cây bút thế hệ anh như Phạm Đình Ân, Trương Hữu Lợi, Mai Văn Hai... mới bắt đầu thấp thoáng.
Ký họa chân dung thi sĩ Văn Cao của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Văn Cao: "Ngày đêm làm ngọc"

Trong các ấn phẩm về thơ Văn Cao đã xuất bản, chỉ thấy chừng chưa đến mươi bài thơ được viết từ năm 1939 đến năm 1942.
Ký họa chân dung nhà thơ Nguyễn Thị Thúy Hạnh của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Nguyễn Thị Thúy Hạnh: Làm thơ, làm chữ

Trong số những nhà thơ trẻ (xuất hiện ở độ tuổi dưới 35) hiện nay, có một số cây bút rất quan tâm đến việc đổi mới thơ theo cách bắt đầu bằng việc dụng chữ, làm chữ, biến/đổi chữ. Nguyễn Thị Thúy Hạnh là một cây bút như vậy, ngay từ đầu, nhất quán và công khai tư duy về chữ, “di chữ”, “sống lời”, đã xác lập một quan niệm về thơ lấy chữ/ngôn ngữ làm trung tâm.
Ký họa chân dung nhà thơ Phạm Công Trứ của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Nhà thơ Phạm Công Trứ: Tựa vào những câu thơ hay

Trong truyền thống, nhất là với thơ trung đại, người đọc thơ thường hay chú ý đến những câu chữ được coi là tuyệt bút trong bài: những “nhãn tự”, “thần cú”... Cách nhìn này, khi bước sang văn học hiện đại vẫn được chú ý, nhưng không còn là duy nhất, cuối cùng.
Ký họa chân dung nhà thơ Bạch Diệp của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường

Nỗi đồng vọng xôn xao

Quan sát những người “dính” vào chốn thơ, thấy họ làm thơ với rất nhiều động cơ khác nhau. Những động cơ ấy có khi rõ rệt, có khi mơ hồ; có khi thiết thực, có khi lại vu vơ; có thể người thơ ý thức rõ công việc mình làm, có khi cứ viết như một thôi thúc bên trong không cưỡng được...
Ký họa chân dung nhà thơ Trần Lê Khánh của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Say mê và kiên trì với thơ tối giản

Trong khoảng thời gian ngắn, nhà thơ Trần Lê Khánh công bố đều đặn mỗi năm một tập thơ. Tại NXB Hội Nhà văn: “Lục bát múa” (2016), “Dòng sông không vội” (2017), “Ngày như chiếc lá” (2018), “Giọt nắng tràn ly” (2019), “Xứ - rung một ngọn mây” (2020). Tại NXB White Pine Press (Hoa Kỳ): “The beginning of water”. Một gia tài thi ca đáng kể, ít ra là về mặt số/ khối lượng.
Minh họa trang thơ: Nguyễn Quang Thiều

Ở phía ấy...

NGUYỄN PHONG VIỆT

Ở phía ấy là mùi hương và hơi ấm ruộng vườn...