Nhà thơ & Bài thơ hay

Nhủ lòng vượt lên những phôi pha

Một người làm thơ trẻ thông thường hay lựa chọn một cách thế sống cùng, sống giữa, đồng hành với thế hệ mình và với đời sống hôm nay trong tất cả sự bề bộn, phức tạp và sống động của nó.
Ký họa chân dung nhà thơ Trần Ngọc Mỹ của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.
Ký họa chân dung nhà thơ Trần Ngọc Mỹ của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Họ làm nên tiếng nói của thế hệ mình. Trên cấp độ tổng quát nhất, họ có gần, cùng một mối bận tâm, gần, cùng một giọng nào đó.

Tuy nhiên, cũng có người, tuy không nhiều, có ý thức và khả năng tách ra khỏi cái chung đó để tạo lập một giọng nói riêng, một cá tính riêng. Đây là điều cần thiết vừa mang tính thách thức hàm chứa nhiều sức hấp dẫn.

Trong số những cây bút thơ trẻ hôm nay, Trần Ngọc Mỹ sớm có ý thức về điều này. Rất cố gắng và không dễ gì có ngay được, phải cho đến bây giờ, sau chừng 4-5 tập thơ, chị mới có một giọng riêng khác, chụm lại, làm nên một gương mặt thơ độc lập. Có thể nói rằng, về cơ bản, thơ chị chính là tiếng nhủ lòng gắng tự vượt lên những phôi pha, những tàn phai.

Buồn là một trạng thái của tâm hồn. Nó không phải là tội lỗi (như một thời văn học trước 1986 từng quan niệm). Có vui ắt có buồn. Có sướng thì có khổ. Có khóc ắt có cười... Chỉ có điều, giữa chúng hiếm khi, thậm chí không bao giờ đạt được sự cân bằng. Mỗi một tạng người nghiêng về mỗi phía khác nhau, tuy vẫn biết trong cái này có cái kia, nhiều khi khó rạch ròi tách bạch.

Ngay từ những bài thơ, tập thơ đầu tiên, Trần Ngọc Mỹ thường ngả nhiều về nỗi buồn. Có nỗi buồn tức cảnh sinh tình. Có nỗi buồn bởi tha nhân tác động. Lại cũng có nỗi buồn do người thơ tự chuốc lấy mà thành. Thôi thì đủ cung bậc của kiếp phận đàn bà đang sống, đang yêu, đang làm vợ, làm mẹ, làm một công dân ở xứ sở mình. Tuy nhiên, tất cả đều do một cái gốc mà ra cả: lòng mẫn cảm, mẫn cảm với tạo vật, với nhân quần, với chính mình, với những đại lượng tưởng rất vô hình như thời gian trôi, hạnh phúc/bất hạnh, sự tồn tại của kiếp người...

Sự mẫn cảm buồn thương ở thơ Trần Ngọc Mỹ trên nét tổng quát, có hai dạng biểu hiện: bi mẫnhạnh mẫn.

Bi mẫn là khả năng nhận ra và cảm thấu về nỗi buồn ở ngoại giới, ngoài mình. Với con người, trước là với người thân (cha mẹ, chị em, chồng con), với bạn bè, với tha nhân (người lao động, em bé hiến tạng, em bé mồ côi, đứa trẻ chết vì thảm họa thiên tai...). Với thiên nhiên ngoại vật, thi cảm của nhà thơ rất đa diện, đa tình. Một cơn gió, một áng mây, một mùa trôi, một bông hoa, một con sóng, một cánh đồng, một triền đồi, một dốc núi...

Ở đây, thiên nhiên phong cảnh hiện lên trước hết như một vẻ đẹp. Song không dừng ở đó, nhà thơ còn mượn nó, gửi vào nó những nỗi niềm thân thế, chủ yếu là thân thế, nỗi mình trong mối liên hệ với nỗi người. Tất cả, cho dù ngoại giới hay nội giới, người thơ này đặc biệt mẫn cảm với sự tàn phai, sự hao mòn, sự phôi pha với nhiều nỗi ngậm ngùi.

Đóa mây vừa bay vừa tan/ Ngày sẽ trôi về phía chân trời/ Như chiếc bóng thản nhiên rời xa chiếc bình kí ức... (Ngày sẽ trôi). Chẳng phải là một sự chảy trôi miên viễn đó sao? Một tàn phai đủ để gầy lên nỗi chạnh lòng.

Còn đây, Có khi nào, anh chợt nhận ra/ Mái tóc em dần thưa/ Mùa xưa phai rụng/ Em cất nỗi sợ sau gương lược/ Tự lòng biết/ Tự lòng huyễn hoặc/ Đóa hoa xinh đang kiêu hãnh nhìn mình (Sợi tóc rụng).

Thơ Trần Ngọc Mỹ có vô số các câu thơ như một tiếng thở buồn như thế. Một người thơ như tôi biết, đang thì thiếu phụ, tưởng chẳng có nguyên cớ gì để nói tàn phai? Hóa ra, cái cảm thức phai tàn này như một thứ thuộc về thể tính, dẫu không muốn cũng không thể khác.

Trong trái tim đặc biệt mẫn cảm của nhà thơ không chỉ là nơi chứa chấp những bi mẫn mà còn chan chứa những hạnh mẫn, tiếng nói của yêu thương, gắn bó, tha thiết với sự sống này. Không để sa lầy vào những bi mẫn, luôn tự nhủ, tự nhắc, tự vực dậy, một đề kháng tự nhiên, thơ Ngọc Mỹ tựa như những chồi cây vươn về dưỡng chất trần gian, tức là về với đất lành, nước mát, ánh sáng, nụ cười...

Đừng khóc nhé em/ Những tàn phai lặng lẽ/ Từ giã muôn lời đã hứa/ Nhẹ nhàng bay hương (Đừng khóc nhé em).

Mỗi bài thơ của Trần Ngọc Mỹ thường bắt đầu bằng những sắc hình mang dáng vẻ phôi pha, gợi lên nhiều thương cảm, chạnh lòng. Ngay sau đó, có một mách bảo, một thôi thúc, một vẫy gọi hàm chứa nhiều năng lượng kéo tâm cảm người thơ mau chóng vượt thoát để làm lành với cuộc đời, với chính mình. Khi người thơ đi “Dạo phố”, một Hải Phòng mơ mộng mà vâm vóc ngời lên: Dạo phố mùa hoa/ những tòa nhà vun vút vươn xa/ ta thấy Hải Phòng đang vỗ cánh/ ta thấy bóng mình bập bềnh dưới dòng sông lấp lánh/ cùng vầng hạ đỏ rực trôi trôi...

Vẫn một tâm thế ấy, nhà thơ đã có những câu thơ thật biếc trong: từ trên cao nhìn xuống/ bình yên khẽ khàng thơm như nắng/lan man phượng đỏ, chờn vờn mây trắng/ sông của thành phố tôi ơi/ bí mật ẩn dưới lòng con sóng/ phớt phơ trôi (Bỏ qua)... Có những bài thơ, tuy hiếm hoi thôi, nhưng từ đầu đến cuối toàn là hạnh mẫn. “Dọn phòng cho con” là một bài thơ như thế. Ở đó, ngập tràn nỗi yêu con, thương con, nhớ con ngay cả khi con ở bên mình. Một vẻ đẹp thiên tính mẫu thuần toàn, bình dị mà sâu lắng: Mẹ ghi ý nghĩ đầy kín ô cửa/ chờ gió mang chúng đến mọi nơi/ ý nghĩ thành chồi non. Ý nghĩ nở hoa/ ý nghĩ theo bước chân con khôn lớn...

Những câu thơ như thế chính là những hạnh mẫn mà người thơ đã chứng nghiệm, mở lòng.

Khởi đầu là bi mẫn, tàn phai. Càng về cuối càng vun lên hạnh mẫn. Như nhan đề một bài thơ của chị, “Bài thơ vỗ cánh”, dẫu thế nào chăng nữa, mỗi bài thơ đều chụm về một ý hướng khá nhất quán như thế. Vỗ cánh chính là tâm thế nhủ lòng để vượt lên những phôi pha...

Nhân Dân hằng tháng trân trọng giới thiệu hai bài thơ tiêu biểu của nhà thơ Trần Ngọc Mỹ

NGÀY SẼ TRÔI

Những ô cửa rũ mỏi
Trên con đường mùa hạ đang rơi
Ánh hoàng hôn loang trong mắt người
Rập rờn ảo ảnh sóng hồ ngẫm ngợi

Làm sao chúng ta thôi vội vã
Trùng trùng vòng xe chóng mặt
Nhích thêm vài chục xen-ti-mét
Có chạm được bến bờ bên kia?

Bến bờ bên kia
Chiếc ghế trống giữ đôi chân dừng lại
Bóng cây reo giọng gió ngọt ngào
Bất chợt một nụ cười thân ái
Nở sáng rực tâm trí ban mai

Làm sao chúng ta vượt qua tiếng thở dài
Và có thể hôn nhau chầm chậm
Chầm chậm như hạt mầm tách vỏ
Để giữ ngực mình nhịp đập xanh non

Nhưng em biết, vòng quay thời gian chẳng thể dừng
Đóa mây vừa bay vừa tan
Ngày sẽ trôi về phía chân trời
Như chiếc bóng thản nhiên rời xa chiếc bình kí ức...

MỘT BUỔI LẠNH

Quán xá lênh khênh
người tấp nập đến, đi khắp ngả
chỉ dòng Tam Bạc trầm mình, lặng lẽ vẽ tô
lô xô muôn ngàn nếp sóng nghĩ
chỉ con thuyền biết nép im dưới vòm phượng vĩ
tự chùng lòng hứng bóng đợi chờ

phố tuột mất bao giấc mơ?
khi tàu kéo vang âm thanh cắt ngang khoảng trống
người lê la vỉa hè bán buôn dăm ba câu chuyện phiếm
quầy sách cũ khơi gợi ký ức tưởng đã chôn vùi
như chiếc cầu nối hy vọng
cho trái tim khao khát bới tìm miền thăm thẳm

Thành phố này nghìn năm
vẫn ồn ào
nồng nhiệt
và sâu lắng...
mỗi góc nhìn xin thắp một vầng mây sáng
sắc phố loang ám ảnh kiệt cùng

Hải Phòng vào buổi đông
con đường in đầy dấu chân gió buốt
ta tuốt nỗi buồn mình như cởi ngàn áo lá, hoa
cái lạnh chầm chậm xuyên cắt thịt da
chợt thấy thân thể mình biến thành cành cây trơ trụi, khô khốc

trôi qua thành phố này
không có chiếc khăn nào đủ dài rộng để quấn trọn vòng ôm
cho một người đi giữa đám đông còn thức dậy ánh nhìn cô đơn.

Minh họa | NGUYỄN MINH

Minh họa | NGUYỄN MINH

Có thể bạn quan tâm

Ký họa chân dung nhà thơ Nguyễn Hùng Vĩ của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

“Em đem mùa hạ rót vào mùa đông”

Những đêm mùa đông chờ Xuân, nơi căn phòng nhỏ ấm, lũ sinh viên nghèo lại quây quần quanh thầy Nguyễn Hùng Vĩ, giảng viên Khoa Ngữ văn, Trường đại học Tổng hợp Hà Nội (cũ), một ông giáo hồn hậu, quê nghèo lam lũ xứ Nghệ, luôn trọng nghĩa trọng tình.

Nhà thơ Vân Anh.

Thơ Vân Anh “mặc định nhịp trẻ”

Dễ thấy lâu nay, người viết khi cho in tuyển tập đồng nghĩa với việc gom lại, khép lại quá trình sáng tác. Nhưng cũng có người sau đó vẫn tiếp tục xuất bản tác phẩm, không phải “út, ít” bòn mót, mà là những “đứa con” bụ bẫm, khỏe mạnh, ai cũng tấm tắc, trầm trồ.

Ký họa chân dung nhà thơ Trần Hoàng Thiên Kim của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Vì yêu mà thao thức

Trần Hoàng Thiên Kim là cái tên không xa lạ với công chúng ở các lĩnh vực báo chí, truyền hình, nghiên cứu văn học hay thơ ca.

Ký họa chân dung nhà thơ Ngô Thanh Vân của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Em và phố và thơ

Ai đó đã từng nói: thơ là bản tự thuật của tâm hồn. Thật thế. Ngoài đời, con người có thể phần nào che giấu được mình, nhưng trong thơ thì không.
Ký họa chân dung nhà thơ Phùng Thị Hương Ly của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Cõng lời thương trên lưng

Nữ nhà thơ Phùng Thị Hương Ly sinh ra và lớn lên ở Bắc Kạn, người Tày, học ngành viết văn, sau ra trường làm báo, hiện sống và viết tại quê hương. Một phác thảo lai lịch như thế cho thấy hai điểm quan trọng: người thơ ấy có một vốn liếng hết sức tự nhiên, sống động về nơi chốn mình, dân tộc mình và được đào tạo bài bản trong môi trường viết.
Ký họa chân dung nhà thơ Huỳnh Thúy Kiều của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

NỒNG NÃ HƯƠNG VỊ MIỀN CHÂU THỔ CHÍN RỒNG

Nhà thơ Huỳnh Thúy Kiều sinh ra và lớn lên ở chính giữa lòng châu thổ Cửu Long. Hiện chị cũng sống và viết tại đây. Như thế, tức là cả đời “ăn chịu” quê hương, xứ sở. Như nắng như gió, như đất như cây, như điệu ca vọng cổ, thơ Huỳnh Thúy Kiều cứ thế cất lên tự nhiên, đậm hương, nồng vị và lan tỏa.
Ký họa chân dung nhà thơ Đào Quốc Minh của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Một phác thảo thơ Ðào Quốc Minh

Những năm gần đây, cái tên Đào Quốc Minh trở nên khá quen thuộc trong văn giới và bạn đọc. Anh viết và xuất bản đã có đến năm sáu tập thơ; tập gần đây nhất là “Phục sinh” (Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2024) với dung lượng khá lớn, 180 bài.
Ký họa chân dung nhà thơ Nguyễn Thị Hồng Ngát của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

“Quả thơm thì ở lại”

Người ta vẫn thường hay nói nhà thơ không có tuổi. Đó là một cách nói vui, lãng mạn, nghiêng về phía an ủi nhau. Thật ra, ai cũng vậy thôi, nhà thơ cũng như tất thảy chúng sinh, không tránh khỏi quy luật của tự nhiên. Tất thảy chúng ta già dần dần, đi theo quy luật của muôn đời: sinh, lão, bệnh, tử… không thể khác.
Ký họa chân dung nhà thơ Trần Kim Hoa của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Thơ của những ký ức cất lời

Trần Kim Hoa làm thơ dễ đã 30 năm có lẻ. Và đã ra được 3 tập thơ riêng đầy đặn, trong đó tập Bên trời gần đây nhất đã được trao Giải thưởng thường niên của Hội Nhà văn Việt nam (2020). Trong vòng ngần ấy thời gian, với 3 tập thơ, cho thấy tác giả không phải là người ham chạy theo số lượng.
Ký họa chân dung nhà thơ Đoàn Văn Mật của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

“Sáng lên từ những nhỏ nhoi”

Cho đến nay, Đoàn Văn Mật đã trình làng ba tập thơ, tập gần đây nhất là “ Ngoài mây trời đầy trống vắng ” (NXB Hội Nhà văn, 2023).
Ký họa chân dung nhà thơ Kiều Maily của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Thơ, hoa của người

Trong bài thơ mang tên “Nàng, hoa của cát” (đồng thời cũng được lấy làm tên cho tập thơ, NXB Hội nhà văn, 2019), nhà thơ Kiều Maily đã có những câu thơ như thể tự họa về mình: Nàng, hoa của cát/ yếu đuối giữa men tình/ kiêu hãnh với cô đơn/ nỗi mơ cuốn nàng về miền hạnh phúc/ Nàng, hương của đất/ chắt chiu giọt phù sa nuôi nấng đời cây/ hẹn mùa gieo hạt. Bài thơ có ba chủ thể: nàng, hoa và cát trong mối quan hệ gắn bó, ràng rịt với nhau.
Ký họa chân dung nhà thơ Phạm Thị Ngọc Liên của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Phạm Thị Ngọc Liên: Người đi tìm chân dung tình yêu

Tròn 20 năm, nữ thi sĩ Phạm Thị Ngọc Liên mới trở lại thi đàn bằng tập thơ dày dặn mang tên “Trong tôi có nhiều tôi” (Nhà xuất bản Hội Nhà văn). 99 bài thơ kết thành một “con đường thơ” với biển chỉ đường là “Tình yêu”. Phải, tất cả đều là thơ Tình, của một người đàn bà hồn nhiên, đa đoan, sẵn sàng “nhắm mắt đi trên cầu thăng bằng/ nồng nàn/ liều lĩnh” để tìm cho được chân dung của Tình yêu, hay là chân dung thân phận con người.
Ký họa chân dung nhà thơ Thy Nguyên của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Thy Nguyên - Người đàn bà làm thơ buồn

Thơ gắn với buồn từ khi nào, có lẽ từ lúc thơ bắt đầu. Buồn là một phẩm chất của thơ, là một phẩm chất của đời sống con người vốn mong manh hữu hạn, nhiều bất toại hơn như ý. Người cầm bút tìm đến thơ như một cách để cất giấu, lại như một cách để phơi bày nỗi buồn trên mặt giấy. Ðể tìm kiếm một sự đồng cảm, tìm kiếm tri âm. Thy Nguyên là kiểu người làm thơ như vậy, “chơi” với buồn, và “phơi” nỗi buồn, không đắn đo giấu giếm.
Ký họa chân dung nhà thơ Nguyễn Hồng của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Thơ của những xuân thì

Nguyễn Hồng là một cái tên dường như đã quen trong đời sống văn học hiện thời. Chị khá chắc tay trong nhiều thể loại: truyện ngắn, tản văn, thơ. Riêng với thơ, chị đã cho in tập “Ví dụ anh” (2016), và đã đăng rải rác khá nhiều bài thơ lẻ trên các phương tiện truyền thông đại chúng. Một dáng vóc thơ dần được định hình...
Minh họa trang thơ: ĐẶNG TIẾN

Trang thơ

Nhân Dân hằng tháng xin giới thiệu cùng độc giả trang thơ Tết.
Ký họa chân dung nhà thơ Phùng Khắc Bắc của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường

Phùng Khắc Bắc, "Một chấm xanh"

Vào quãng năm đầu thập kỷ chín mươi của thế kỷ trước, khi đang làm nghiên cứu sinh ở Đại học Sư phạm Hà Nội, tôi thấy trong văn giới xôn xao bàn tán về một tài thơ rất lạ mới có 47 tuổi vừa mới khuất. Đó là nhà thơ Phùng Khắc Bắc, tác giả tập thơ duy nhất mang tên “Một chấm xanh” do NXB Quân đội nhân dân phát hành cuối năm 1991.
Ký họa chân dung nhà thơ Nguyễn Hoàng Sơn của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Nguyễn Hoàng Sơn, thơ viết cho thiếu nhi và...

Bạn đọc yêu thơ ngay từ thập niên 80 của thế kỷ XX đã biết đến một cây bút viết thơ cho thiếu nhi mang tên Nguyễn Hoàng Sơn. Lúc ấy, thơ viết cho thiếu nhi nổi bật nhất vẫn là một số cây bút quen thuộc, thế hệ đàn anh như Võ Quảng, Phạm Hổ, Định Hải... Cái tên Nguyễn Hoàng Sơn cùng vài cây bút thế hệ anh như Phạm Đình Ân, Trương Hữu Lợi, Mai Văn Hai... mới bắt đầu thấp thoáng.
Ký họa chân dung thi sĩ Văn Cao của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Văn Cao: "Ngày đêm làm ngọc"

Trong các ấn phẩm về thơ Văn Cao đã xuất bản, chỉ thấy chừng chưa đến mươi bài thơ được viết từ năm 1939 đến năm 1942.
Ký họa chân dung nhà thơ Nguyễn Thị Thúy Hạnh của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Nguyễn Thị Thúy Hạnh: Làm thơ, làm chữ

Trong số những nhà thơ trẻ (xuất hiện ở độ tuổi dưới 35) hiện nay, có một số cây bút rất quan tâm đến việc đổi mới thơ theo cách bắt đầu bằng việc dụng chữ, làm chữ, biến/đổi chữ. Nguyễn Thị Thúy Hạnh là một cây bút như vậy, ngay từ đầu, nhất quán và công khai tư duy về chữ, “di chữ”, “sống lời”, đã xác lập một quan niệm về thơ lấy chữ/ngôn ngữ làm trung tâm.
Ký họa chân dung nhà thơ Phạm Công Trứ của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Nhà thơ Phạm Công Trứ: Tựa vào những câu thơ hay

Trong truyền thống, nhất là với thơ trung đại, người đọc thơ thường hay chú ý đến những câu chữ được coi là tuyệt bút trong bài: những “nhãn tự”, “thần cú”... Cách nhìn này, khi bước sang văn học hiện đại vẫn được chú ý, nhưng không còn là duy nhất, cuối cùng.
Ký họa chân dung nhà thơ Bạch Diệp của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường

Nỗi đồng vọng xôn xao

Quan sát những người “dính” vào chốn thơ, thấy họ làm thơ với rất nhiều động cơ khác nhau. Những động cơ ấy có khi rõ rệt, có khi mơ hồ; có khi thiết thực, có khi lại vu vơ; có thể người thơ ý thức rõ công việc mình làm, có khi cứ viết như một thôi thúc bên trong không cưỡng được...
Ký họa chân dung nhà thơ Trần Lê Khánh của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Say mê và kiên trì với thơ tối giản

Trong khoảng thời gian ngắn, nhà thơ Trần Lê Khánh công bố đều đặn mỗi năm một tập thơ. Tại NXB Hội Nhà văn: “Lục bát múa” (2016), “Dòng sông không vội” (2017), “Ngày như chiếc lá” (2018), “Giọt nắng tràn ly” (2019), “Xứ - rung một ngọn mây” (2020). Tại NXB White Pine Press (Hoa Kỳ): “The beginning of water”. Một gia tài thi ca đáng kể, ít ra là về mặt số/ khối lượng.
Minh họa trang thơ: Nguyễn Quang Thiều

Ở phía ấy...

NGUYỄN PHONG VIỆT

Ở phía ấy là mùi hương và hơi ấm ruộng vườn...