Những đứa trẻ chung nỗi buồn số phận
Tết năm nay, chịu ảnh hưởng của dịch bệnh, cuộc sống vốn phải “giật gấu, vá vai” nhưng đại đức Thích Thanh Quang vẫn lo đủ 20 kg gạo nếp, 6 kg đậu xanh để gói bánh tét cho bọn trẻ. Ngoài ra là bánh kẹo, hạt dưa đỏ và như mọi năm, cháu nào cũng có một bộ quần áo mới để diện đúng ngày đầu năm.
Đại đức Thích Thanh Quang nhớ về cái Tết cách đây vài năm, một cậu bé bị bỏ trước cổng chùa đúng chiều 30. Khi phát hiện, cậu bé còn đỏ hỏn được quấn trong chiếc khăn. Cậu có gương mặt hiền từ, sáng sủa và lanh lợi nên đại đức đặt tên là Hoàng Trang. Mỗi đứa trẻ có duyên đến cửa chùa có nhiều hoàn cảnh khác nhau nhưng các em đều chung một nỗi buồn của số phận.
Đại đức Thích Thanh Quang tên thật là Chế Hoàng Thọ (sinh năm 1967) trú tại xã Diên An, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa về chùa Thanh Sơn từ năm 1995 khi ngôi chùa này còn bị bỏ hoang. Năm 1996, trước yêu cầu của giới Phật tử làng Thủy Triều, Hòa thượng Thích Thiện Bình, Trưởng Ban trị sự Giáo hội Phật giáo tỉnh bổ nhiệm Đại đức Thích Thanh Quang trụ trì chùa.
Lúc đại đức Thích Thanh Quang mới về, Thủy Triều còn heo hút, hoang sơ, tứ bề là cát trắng, không có đường sá, không có cầu đi qua sông, điện sinh hoạt cũng chưa có. Cuộc sống của người dân ở đây lam lũ, nghèo khó, trẻ em ngày hai bữa đi bắt cá, mò cua. Đại đức thương cảm, nhận đỡ đầu, nuôi các cháu con nhà nghèo ăn học. Thấy những đứa bé này chăm chỉ, ngoan ngoãn, học hành ngày càng tiến bộ, các gia đình có hoàn cảnh đặc biệt truyền tai nhau tìm đến gửi con cho thầy ngày một nhiều… Đó là những gia cảnh bố mẹ ly dị, bố mẹ mất vì tai nạn mà ông bà không nuôi được.
Năm 2004, ông Nguyễn Xuân Hà, Chủ tịch UBND huyện Cam Lâm ký quyết định thành lập nhà mái ấm thuộc chùa Thanh Sơn. Từ bấy tới nay, ngôi chùa vẫn để lối đi tự nhiên vào chùa mà không xây kín cổng cao tường. Đại đức Thích Thanh Quang cho rằng, việc làm từ thiện luôn quang minh chính đại, để như vậy nhằm dẫn lối tự nhiên các hoàn cảnh khó khăn có duyên đến nương tựa nhà chùa. Hay cũng để cho bọn trẻ có cuộc sống thoải mái, hòa nhập với cộng đồng chung quanh.
Cũng từ năm này, những đứa trẻ bị bỏ rơi nơi cửa chùa ngày một nhiều. Hầu hết, các em sinh ra mới một ngày tuổi, chưa rụng rốn. Đại đức nhớ rõ từng cái tên mình đặt: Chế Nam Sách, Chế Lãng Quỳnh, Chế Kim Liên, Chế Lan Hương… Mỗi đứa bé, được đặt trong cái làn, cái rổ đi chợ, thậm chí chỉ quấn manh áo kèm theo những lá thư day dứt: “Con là sinh viên trường đại học, con lỡ có bầu với một người nước ngoài. Sau anh ấy về nước, con không dám phá thai, giữ thai lại. Nay con nhờ nhà chùa cưu mang cháu để con học tiếp”. Có nhiều đứa trẻ mang dòng máu lai được nuôi tại chùa. Đại đức nhớ đến hai chị em khi đến đây: Chị bốn tuổi là Chế Mỹ Hảo, cậu em hai tuổi là Chế Kiến Phúc. Chúng dáng vẻ còm nhom, ánh mắt hoảng hốt. Các em chưa biết tiếng Việt mà chỉ nói tiếng Trung. Một năm sau, người mẹ bất chợt quay lại tìm con và kể lại hoàn cảnh đáng thương của mình. Chị là nạn nhân bị bán qua biên giới. Kết cục của cuộc hôn nhân thường xuyên bị đánh đập khiến chị bị tổn thương thần kinh. Những lúc tỉnh, chị kéo hai con bỏ trốn. May mắn, một lần, ba mẹ con đã tìm đường về Việt Nam. Sau lần gặp lại các con, người mẹ ấy không bao giờ quay trở lại chùa nữa.
Ngắt câu chuyện của đại đức, một cậu bé da đen nhẻm thưa: “Thưa thầy, con muốn đi cắt tóc ạ!”. Đại đức ân cần trả lời: “Tết nhất này ai cắt hả con?”. Cậu tên là Chế Kỳ Hà, nương nhờ cửa chùa từ năm lên bảy. Em bị dị tật bẩm sinh, khoèo chân tay, đi lại khó khăn. Năm nay Hà đã 17 tuổi. Em kể: “Từ khi vào chùa, con đã ba lần được đại đức đưa đi phẫu thuật, nắn thẳng chân tay tận Sài Gòn!. Con biết ơn đại đức lắm!”. “Còn kia là cậu bé Lê Viết Tuấn, nay đã 27 tuổi, cậu bị bệnh down nên dáng vóc chỉ vậy thôi!”. Thấy đại đức chỉ tay, Tuấn chạy đến và gọi bằng giọng ngọng nghịu: “Cầy ơi, cầy!”. Đại đức cười hiền từ và kể: “Tuấn được đưa vào chùa năm 10 tuổi. Bố cậu bị tai nạn giao thông, mẹ bán vé số. Hằng ngày, vì quậy phá, Tuấn bị mẹ xích vào cái cột gần nhà. Mỗi khi mẹ đi chợ, cậu la hét khiến hàng xóm ai cũng phải phiền lòng”. Được mọi người giới thiệu, Tuấn được mẹ đến gửi gắm đại đức. Người dân làng Thủy Triều, sống nhiều năm ở đây kể: “Mới đến chùa, Tuấn nghịch ngợm, quậy phá, la hét dữ lắm. Nhưng tình thương của đại đức đã cảm hóa được em. Nay em rất vui vẻ với mọi người chung quanh và đặc biệt rất quấn quýt đại đức”.

“Duy tuệ thị nghiệp”
Thời điểm đông nhất, ngôi chùa Thanh Sơn là mái ấm của 107 trẻ và 17 người già neo đơn. Tất cả các em ở đây đều mang họ Chế của Đại đức Thích Thanh Quang. Đại đức đi kêu gọi các tấm lòng hảo tâm rồi phật tử biết đến cùng chung tay làm việc thiện. Người già neo đơn trong chùa thì phụ giúp việc nuôi trẻ sơ sinh, cơm nước. Việc chăm sóc sức khỏe cho các cháu đang ở tại chùa được Đại đức Thích Thanh Quang hợp đồng với trạm y tế xã. Hằng ngày, ai “nhức đầu, sổ mũi” cứ đến khám bệnh, lấy thuốc, cuối tháng chùa thanh toán một lần.
Những đứa trẻ đến tuổi đi học đều được đại đức gửi gắm tới các trường gần nhà. Lứa mầm non thì học Trường Mai Vàng, lên tiểu học thì có Trường Cam Hải Đông, bậc THCS có Trường Hùng Vương, lên THPT học Nguyễn Huệ. Trong quá trình học tập, đại đức thường xuyên liên hệ với các thầy, cô ở trường để lưu tâm đến học sinh nhà chùa. Hằng ngày, đại đức dạy phật pháp cho các em, việc học văn hóa, ngoài giờ học ở trường, các em lớp lớn lại kèm em lớp nhỏ. Một thầy giáo cảm kích tấm lòng của đại đức đã nhận đến dạy kèm miễn phí cho các em học yếu. Dù hoàn cảnh khó khăn, bữa ăn còn đạm bạc nhưng nhà sư có tấm lòng bao dung này luôn cố gắng để nuôi dưỡng và cho các em học hành. Vì theo đại đức, “duy tuệ thị nghiệp” tức là duy trì trí tuệ để có một sự nghiệp tốt đẹp.
Kể từ năm 1996 đến nay, chùa Thanh Sơn nuôi dưỡng và tạo điều kiện ăn học cho khoảng 500 trẻ em bất hạnh. Cứ mỗi lứa trẻ lớn lên, đến kỳ thi tốt nghiệp THPT, nếu em nào có nguyện vọng thi đại học, đại đức lại “khăn gói quả mướp” đưa đi thi. “Đưa các con đi thi mà lòng tôi lo lắm, rất mong các con đỗ đạt để trưởng thành. Nhưng nếu chúng đỗ đạt, lên thành phố học thì nhà chùa lấy đâu chi phí!”, đại đức nói vậy rồi cười xòa. Hiện nay, đã có nhiều em nhờ chăm chỉ, siêng năng và sáng dạ đã tốt nghiệp hoặc đang theo học các trường đại học như y dược, kiến trúc, ngân hàng, cao đẳng nghề... Đại đức tâm sự mà mắt nhòe xúc động: “Em Nguyễn Ngọc Pi Doanh hiện đã là bác sĩ, công tác tại Bệnh viện Nhi đồng 2, TP Hồ Chí Minh. Khi còn ở chùa, mỗi lần tôi bị bệnh, cậu bé lại nói: Lớn lên con sẽ làm bác sĩ để chữa bệnh cho thầy!”.
Có những lứa trẻ đã đủ lông, đủ cánh bay đi. Tết Tân Sửu, nhiều đứa hiếu nghĩa quay trở về mái ấm thăm đại đức và ăn Tết với các em. Đó là niềm vui bất tận của nhà sư từ bi.