Những "kỵ sĩ" nghiệp dư
Lần nào cũng vậy, ai cũng thấy sảng khoái mỗi khi bắt đầu nhìn các "kỵ sĩ miền núi" dắt ngựa vào sân đấu. Họ mặc trang phục và đi giày dép lung tung. Có người đội mũ bảo hiểm xe máy, người còn đi chân đất, còn ngựa thì lấm bùn như vừa đi nương về, tiện thể rẽ vào đua. Ngựa đua không phải là "kỵ mã", "chiến mã" mà toàn là "thồ mã" bé nhỏ, đầu ngựa chỉ cao đến... vai người đứng, chưa được dạy tử tế. Nói chung, cả người và ngựa đều nghiệp dư, nên khi ra sân xuất trận, trọng tài chưa kịp phất cờ, ngựa đã chạy là chuyện bình thường.
Nhiều người công nhận, có lẽ hấp dẫn là ở những chỗ xộc xệch và hài hước đó. Trong ba tính chất làm nên sự hấp dẫn của giải đua ngựa truyền thống này là tinh thần thể thao mạo hiểm, thượng võ và tính... nghiệp dư. Thì tính nghiệp dư này cũng là một sự thu hút và buồn cười đáo để, có khi làm cả vạn người xem thót tim, rồi lại ngặt nghẽo cười. Ở vòng loại, cứ năm con ngựa chạy một lần thì có đến ba chú chạy lạc vòng, xô vào người xem khiến tất cả nháo nhào. Năm 2008, ban tổ chức phát tiền ăn trưa cho các "kỵ sĩ", đã dặn cẩn thận là trưa đừng có ăn thắng cố và uống rượu say, ảnh hưởng đến cuộc đua. Nhưng có chàng trai người Mông ở Lầu Thí Ngài vẫn thiếu kiềm chế, mềm môi "quá bát". Ðến chiều, cứ leo lên lưng ngựa, ngựa vừa cất bước là chủ lại tuột chuội xuống như một cái bao tải bông ngấm nước. Con ngựa quay đầu lại nhìn người cưỡi, bất lực...
Còn một chuyện "nghiệp dư" nhưng thú vị nữa là các "tay đua chân đất" này cưỡi "như người da đỏ tiền Colombo". Tức là ngựa đều không có yên và bàn đạp. Ai đã từng thử ngồi lên lưng ngựa kiểu này đều biết là rất khó, ngựa chạy nhanh một chút là ngã ngửa về phía sau. Vậy mà các "kỵ sĩ miền núi" dám dũng cảm ngồi trên lưng ngựa như trên... đất bằng. Phải nói rằng tuy bình thường, các chú ngựa thồ lóc cóc chậm chạp là vậy, khi cất vó phi nước đại rầm rập, bờm và đuôi bay tung trong tốc độ xấp xỉ 60 km/giờ.
Thêm một chuyện nữa, là đường đua ở sân vận động chạy bốn vòng vốn là đường chạy... của người, nên khi ngựa phi nước đại vào cua, chẳng ít người không trụ nổi, năm nào cũng có người bị ngã và bị ngựa dẫm lên. Nguy hiểm là vậy nhưng các tay đua miền núi không ai bỏ cuộc trước tiếng reo hò cổ vũ của người xem và luôn hướng đến giải thưởng lớn... 20 triệu đồng (tương đương gấp rưỡi tiền mua một chú ngựa tốt) đang chờ ở cuối đường!
Niềm vui vùng cao nguyên trắng
Ông Vương Văn Xới, người Nùng (thôn Na Hối, Bắc Hà), một "kỵ sĩ" từng tham dự những cuộc đua truyền thống kể lại rằng, những cuộc đua của thanh niên Mông, Tày, Nùng... ở chợ phiên Bắc Hà đầu xuân khác bây giờ rất nhiều. Tính chất thượng võ và luyện tập rõ hơn hẳn. Thuở đó, đua ngựa phải kèm theo cả bắn súng. Ðường đua là ngã ba chợ Bắc Hà về dinh Hoàng A Tưởng (độ dài khoảng một km), đường không phẳng mà nhiều dốc, khúc ngoặt. Người đua xuất phát từ chợ, chạy về đích là bãi rộng trước cửa dinh (có một dòng suối nhỏ uốn quanh), phi đến nơi, mỗi kỵ sĩ phải nhảy xuống bắn năm phát súng vào đích là năm cái lá được bôi mầu bên kia dòng suối (bắn kiểu này rất khó, vì vừa trên lưng ngựa nhảy xuống bị xóc, thân người chưa ổn định). Sau đó lại nhảy lên lưng ngựa phi về điểm xuất phát. Chàng trai nào phi nhanh nhất, bắn trúng đích nhiều nhất sẽ thắng cuộc. Giải thưởng hồi đó rất đơn sơ, ít ỏi, có khi chỉ là một bộ ấm chén hay chiếc áo thêu thổ cẩm. Nhưng ai về nhất thì được các thiếu nữ và tất thảy người xem ngưỡng mộ, điều đó với các chàng "trai rừng", thì còn giá trị hơn cả giải thưởng.
Giải đua bây giờ tuy đã phần nào phai nhạt tinh thần thượng võ và rèn tập chiến đấu, nhưng tinh thần "thể thao mạo hiểm" thì vẫn còn nguyên. Phải nói rằng có sự "đột phá" của ban tổ chức khi tăng ngay trên sân giải Nhất cuộc đua năm 2008 từ 700 nghìn lên hai triệu đồng. Năm 2011 là 10 triệu và năm 2012 là 20 triệu đồng. Việc treo giải cao cũng là một điều kiện để các "kỵ sĩ" có thêm hào hứng chăm lo luyện tập lâu hơn trước khi vào giải đấu. Trước đây, các "kỵ sĩ" chỉ lôi ngựa ra sân vận động tập khoảng một tuần trước cuộc đua, thì giờ, từ đầu năm đã thấy hàng chục người chiều chiều dẫn ngựa ra sân luyện tập. Nếu như trong các cuộc đua trước đây, tính chất được mất, ăn thua về vật chất, tiền bạc rất thấp, tinh thần thượng võ và danh dự được đề cao trên hết thì nay nghiêng về tính ganh đua để giật giải. Anh Vương Văn Thức (vô địch năm 2009), năm nay thửa một chú ngựa mới năm tuổi, được coi là ứng cử viên sáng giá (nhưng cuối cùng anh chỉ về được thứ tư vì các đối thủ quá mạnh). Thức kể rằng, trước một tháng, anh phải cho ngựa nghỉ đi thồ hàng, chỉ luyện chạy. Hằng ngày, ngựa được cho ăn cỏ ngon, và thóc, tối được uống nước đường và được tắm rửa thường xuyên cho đẹp mã. Nhưng cũng không được cho ngựa ăn "thả phanh" vì ngựa béo ra, bụng to lại khó chạy. Anh Vàng Văn Huỳnh - mang số áo 157 (thôn Na Hối) hai năm liền (2011, 2012) đoạt danh hiệu vô địch đã chứng tỏ được sự "chuyên nghiệp hóa" trong cái "nghiệp dư". Ngoài việc chăm ngựa kỹ lưỡng, Huỳnh còn nhịn ăn trước hai tháng để ép cân chính mình giảm được... năm kg.
Hội đua ngựa truyền thống ngày xưa diễn ra vào đầu xuân, vào các phiên chợ Tết, bây giờ thì được quy định diễn ra theo mùa mận chín để người dân... bán mận luôn thể. Hội đua, được huyện xác định không chỉ là dịp tạo ra không khí vui vẻ của "xứ sở mận trắng" mà còn là dịp để quảng bá văn hóa, thương hiệu nông sản Bắc Hà. Ðã có người đưa ra ý kiến rằng, ban tổ chức nên mua một số bộ yên cương tử tế để phát cho người đua. Nhưng ý kiến này lập tức bị gạt đi, bởi nếu làm "chuyên nghiệp" sẽ mất bớt mức độ hồi hộp, mạo hiểm của trò đua, gây hấp dẫn đối với người xem. Ba năm nay, thị trấn Bắc Hà cũng có một ngày tắc đường y như dưới thành phố lớn, và các hàng ăn thì bị du khách đánh chén sạch sẽ. Du khách cả nước đến xem, vừa vui vì được xem một giải đua độc đáo, lúc về lại có mận tam hoa Bắc Hà, rượu ngô Bản Phố, mật ong rừng... và vô vàn các loại lâm thổ sản miền núi đem về làm quà.
* Trong ba tính chất làm nên sự hấp dẫn của giải đua ngựa truyền thống hằng năm trên cao nguyên Bắc Hà là tinh thần thể thao mạo hiểm, thượng võ và tính... nghiệp dư. Trong đó, tính nghiệp dư cũng là một sự thu hút và buồn cười đáo để, có khi làm cả vạn người xem thót tim, rồi lại ngặt nghẽo cười.