XUÂN này, xuân nữa, xuân sau, ta sẽ nói và nói mãi chuyện trồng cây, trồng người. Bởi muốn gặt hái, phải gieo trồng.
Tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, nơi đào tạo ra những cán bộ lãnh đạo của Đảng, Nhà nước và đoàn thể, có khắc nổi bật câu danh ngôn của Bác: "Học để làm việc, làm người, làm cán bộ". Nguyên là, tháng 9/1949, Bác đến thăm Trường Nguyễn Ái Quốc Trung ương và ghi vào Sổ vàng lưu niệm câu này:"Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự Đoàn thể, phụng sự giai cấp và nhân dân, phụng sự Tổ quốc và nhân loại".
Làm người, đặc biệt là người cán bộ, theo Bác, phải gồm đủ bốn đức cần, kiệm, liêm, chính. Năm 1949, với bút danh Lê Quyết Thắng, Bác viết trên báo Cứu Quốc một loạt bốn bài: Thế nào là Cần (30/5), Thế nào là Kiệm (ngày 31/5), Thế nào là Liêm (ngày 1/6) và Thế nào là Chính (ngày 2/6).
Bác định nghĩa CẦN "là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng dẻo dai"; "Cần thì việc gì, dù khó khăn mấy, cũng làm được", CẦN có "nghĩa rộng là mọi người đều phải Cần, cả nước đều phải Cần".
KIỆM "Là tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi". Bác nhấn mạnh Cần và Kiệm "như hai chân của con người". Kiệm, là kiệm về vật chất nhưng còn phải biết kiệm về thời giờ, tiết kiệm thời giờ cho mình và thời giờ cho cả người khác, bởi "Của cải nếu hết, còn có thể làm thêm, khi thời giờ đã qua rồi, không bao giờ kéo nó trở lại được".
LIÊM "là trong sạch, không tham lam", "Tham tiền của, tham địa vị, tham danh tiếng". Bác cho rằng, "tham ăn ngon sống yên" tức là thiếu đấu tranh, thiếu trách nhiệm cũng là bất liêm.
CHÍNH "nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn". "CẦN, KIỆM, LIÊM, là gốc rễ của CHÍNH. Nhưng một cây cần có gốc rễ, lại cần có ngành, lá, hoa, quả mới là hoàn toàn. Một người phải Cần, Kiệm, Liêm, nhưng còn phải Chính mới là người hoàn toàn".
Cần, kiệm, liêm, chính không phải là những từ mới, nhưng đến Bác Hồ, thì có thêm những nội hàm mới mang tính Đảng, tính Nhân dân.
Người Việt vốn cầu thị và có khả năng kỳ diệu trong sự thuần hóa, nâng cao những tinh hoa văn hóa nhân loại. Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo ở Trung Hoa và một số nước khác vốn tách rời nhau, thậm chí có khi đối chọi nhau. Nhưng vào Việt Nam, trở thành tam giáo đồng nguyên. Người Việt Nam có thể thờ thần, thờ Phật, thờ tiên thánh, thờ các vị tiền bối có công với nước, thờ Trần Hưng Đạo cùng với Quan Công… Không phải người Việt thờ một ông tướng nhà Thục Hán mà thờ biểu tượng của sự trung nghĩa.
Người xưa từng nói: Nhất niên chi kế mạc như thụ cốc, Thập niên chi kế mạc như thụ mộc, Chung thân chi kế mạc như thụ nhân…, nhất thụ bách hoạch giả, nhân dã. Nghĩa là kế cho một năm không chi bằng trồng lúa, kế cho mười năm, không chi bằng trồng cây, kế suốt đời là trồng người; trồng một thu trăm chỉ có trồng người.
Từ tác phẩm Đường Kách mệnh, Bác Hồ đã nói chuyện trồng người. Ngày 13/9/1958, Người phát biểu tại "Lớp học chính trị của giáo viên cấp II và cấp III toàn miền Bắc", giao cho ngành giáo dục mới một sứ mệnh vẻ vang:
"Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người".
![]() |
| Tuổi trẻ là mùa xuân của đất nước. Ảnh: Hoàng Hùng |
Nhưng trồng người không chỉ có ở nhà trường, trước hết trong mỗi gia đình.
Tôi nhớ hồi còn nhỏ, mỗi lần tế lễ, ông thủ chỉ (cao tuổi nhất) hoặc tộc trưởng đều đọc to gia phả lên cho con cháu cùng nghe. Câu đầu tiên của gia phả các họ đều nhấn mạnh nguồn cội và chăm lo cho nguồn cội: Nước có nguồn, cây có cội; nguồn xa nước mạnh, cội vững cành xanh.
Nguồn cội đây là tổ tiên, là các bậc tiền bối; còn có nghĩa là đạo lý, truyền thống tốt đẹp của gia đình, dòng họ.
Mỗi đứa trẻ Việt Nam (xưa) đều lớn lên trong lời ru ngọt ngào của bà, của mẹ. Trong thực thi các bổn phận trong lời ru là lời dạy làm người, là sự trồng người.
Giờ đây, tổng kết lại, tôi thấy người Việt đã dạy con những điều chí tình, chí nghĩa; đã đạt tới đỉnh cao của văn hóa và phẩm hạnh con người.
Ân nghĩa là điều đầu tiên được truyền dạy. Mỗi người không tự nhiên sinh ra mà chín tháng mười ngày mang nặng đẻ đau của mẹ, là công cha như núi Thái Sơn, là hạt lúa củ khoai dầm mưa dãi nắng quê hương, là đùm bọc của cô bác, sểnh cha có chú, sểnh mẹ bú dì. Thấm sâu ơn nghĩa và đạo làm người căn bản nhất phải báo đáp ơn nghĩa từ người gần đến kẻ xa, từ nhà đến nước. Vì thế, người Việt ý thức rất rõ về bổn phận, thực thi các bổn phận bằng tình cảm sâu xa nhất, bằng sự tận lực và cảm thấy hạnh phúc được làm tròn bổn phận. Sức mạnh Việt Nam từ chỗ đó. Sự gắn kết các thế hệ cũng từ chỗ đó. Tình nghĩa là một từ nhuần nhụy, một đặc tính, một ưu trội của người Việt, văn hóa Việt.
Người Việt luôn được dạy về hiếu nghĩa (bách thiện hiếu vi tiên). Làm người con có hiếu, làng nước tôn vinh, truyền tụng để ai cũng muốn noi theo, cũng phấn đấu. Hiếu nghĩa, Tình nghĩa không chỉ hướng thượng đối với cha mẹ, tổ tiên mà còn đối với anh em, quyến thuộc (hiếu đễ) anh em như thể chân tay, máu chảy ruột mềm…; với cả người ngoài thương người như thể thương thân. Tôi cho những câu như: Bầu ơi thương lấy bí cùng, Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn; Một điều nhịn, chín điều lành là những câu tục ngữ, ca dao Việt Nam rất có ý nghĩa.
Nếu trong nhà làm tròn hiếu nghĩa thì ra ngõ phải giữ điều Tín nghĩa để giao thiệp với anh em, bạn bè, để đối ngoại Khôn ngoan chẳng lọ thật thà; Một sự mất tín, vạn sự bất tin.
Khi lớn hơn, ta được dạy điều trung nghĩa Trai thời trung hiếu làm đầu, Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình.
Người Việt còn dạy con gì nữa? Phải trở thành người lao động. Đơn giản thôi Tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ. Dạy con sự sạch sẽ, gìn giữ tiếng thơm Đói cho sạch, rách cho thơm; Giấy rách phải giữ lấy lề; Trăm năm bia miệng thì mòn, Nghìn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ. Dạy con phải có khí phách của người anh hùng biết lập công đền nợ nước, biết khinh thường xa hoa phú quý khi nó làm tổn hại thanh danh, biết cứu giúp người hoạn nạn Dẫu xây chín bậc phù đồ, Chẳng bằng làm phúc cứu cho một người…
Một thầy giáo dạy văn cấp ba của tôi đã giảng câu tục ngữ "Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài" là câu nhằm phê phán những kẻ cơ hội. Sau này, đọc sách nhiều hơn, tôi hiểu thêm rằng cứng nhắc đồ nho mà cũng phải quyền biến. Và tính cách nước, theo học giả Cao Xuân Huy là tính cách Việt, biết uyển chuyển, phù hợp với hoàn cảnh, lựa theo tình thế để vượt qua những khó khăn thách thức. Không chỉ vượt qua những khó khăn thách thức, mà đó còn là phương thức hữu hiệu nhất để hội nhập, để nuốt lấy những thứ quý giá bên ngoài, thuần hóa, Việt hóa của người ta làm của mình, là phương thức tồn tại để phát triển.
Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII đã có những tổng kết chí lý, làm cho ta thêm tự hào về văn hóa dân tộc: "Văn hóa Việt Nam là thành quả hàng nghìn năm lao động sáng tạo, đấu tranh kiên cường dựng nước và giữ nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, là kết quả giao lưu và tiếp thu tinh hoa của nhiều nền văn minh thế giới để không ngừng hoàn thiện mình. Văn hóa Việt Nam đã hun đúc nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc".
Sự trao truyền văn hóa đỉnh cao ấy được cha ông ta lựa chọn một cách thông minh bằng ca dao tục ngữ, những truyện kể lịch sử, bằng giáo dục gia đình, bằng đức dục trong nhà trường và nêu gương xã hội…
Ấy vậy mà nhiều người ngày nay bước đến tương lai bằng cách giẫm đạp lên quá khứ, giang tay hứng lấy những bọt bèo của lối sống hào nhoáng xa hoa, cá nhân ích kỷ của bên ngoài.
Trong bài viết "Quyết tâm chấn hưng và xây dựng thành công một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc", Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: "Sự yếu kém, khuyết điểm này đã gây hệ lụy, tác động tiêu cực đến phát triển kinh tế-xã hội, đến xây dựng con người và môi trường văn hóa của chúng ta" (Một số vấn đề về lý luận và thực tiễn về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, NXB CTQG-ST, 2022, tr. 168).
Chuyện con người, trồng người là thế. Trồng cán bộ, tạo ra một chính quyền thanh sạch, một xã hội thanh sạch sẽ góp phần quan trọng cho sự nghiệp trồng người.
