Điện ảnh Việt - Mỹ:

Mong đợi cái bắt tay chặt hơn

Sau ba thập kỷ Việt Nam và Mỹ chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao (1995-2025), điện ảnh đã trở thành một trong những lĩnh vực giao lưu văn hóa giàu sức sống, phản ánh hành trình chuyển dịch từ ký ức chiến tranh sang hợp tác sáng tạo.

Các hoạt động xúc tiến điện ảnh ở các liên hoan phim quốc tế tại Việt Nam là tín hiệu tốt cho hợp tác điện ảnh Việt với Mỹ cũng như với các nền điện ảnh phát triển. Ảnh: ANH QUÂN
Các hoạt động xúc tiến điện ảnh ở các liên hoan phim quốc tế tại Việt Nam là tín hiệu tốt cho hợp tác điện ảnh Việt với Mỹ cũng như với các nền điện ảnh phát triển. Ảnh: ANH QUÂN

Tại Hội thảo “Di sản Điện ảnh trên hành trình hợp tác văn hóa Việt Nam - Mỹ” do Viện Phim Việt Nam vừa tổ chức, nhiều ý kiến cho rằng, nếu như những năm đầu, hai nền điện ảnh vẫn còn nhiều khoảng cách, cả về góc nhìn, cách tiếp cận lẫn cơ chế hợp tác, thì nay, hàng loạt dự án sản xuất, liên hoan phim, hội thảo chuyên đề và các chương trình xúc tiến quốc tế đang dần kiến tạo một “ngôn ngữ chung”.

Từ ký ức chiến tranh đến đối thoại văn hóa

Chia sẻ với Thời Nay, đạo diễn người Mỹ Aaron Toronto cho rằng, việc hợp tác làm phim giữa Việt Nam và Mỹ tất yếu tồn tại những khác biệt về góc nhìn. Nguyên nhân bắt nguồn từ quá khứ chiến tranh, khiến nhiều người Mỹ khi nghĩ tới điện ảnh về Việt Nam là liên tưởng đến đề tài chiến tranh. Điều này lý giải vì sao nhiều dự án phim của Mỹ đặt bối cảnh tại Việt Nam thường khai thác chủ đề này từ góc nhìn riêng. Trong khi Việt Nam muốn giới thiệu hình ảnh một đất nước hiện đại, phát triển, giàu bản sắc văn hóa. Chính sự khác biệt này đôi khi khiến các dự án hợp tác gặp trục trặc, thậm chí bỏ lỡ cơ hội.

Còn về sự hiện diện của phim Việt Nam tại Mỹ, nhà phê bình điện ảnh Nguyên Lê nhận định, đây là thời điểm tích cực khi các tác phẩm điện ảnh Việt ngày càng được phổ biến và tiếp cận với khán giả rộng rãi hơn, không chỉ giới hạn trong cộng đồng người Việt kiều. Tín hiệu đáng mừng là phim Việt Nam đã vào được hệ thống rạp đại chúng ở Mỹ, chứ không chỉ chiếu trong các sự kiện hội đoàn hoặc phục vụ khán giả gốc Việt. Đáng chú ý, phim Việt chiếu ở Mỹ hiện không chỉ là các tác phẩm của đạo diễn Việt kiều mà còn có những bộ phim do chính các nhà làm phim trong nước sản xuất. Tuy nhiên, anh cũng chỉ ra hạn chế là việc truyền thông Mỹ chưa dành nhiều sự quan tâm cho điện ảnh Việt Nam. Ngay cả trong các tòa soạn lớn cũng thiếu những cây bút chuyên viết về lĩnh vực này. Cơ hội tiếp cận truyền thông vì thế bị bỏ lỡ, khiến phim khó lan tỏa.

122.jpg
Phim “Hành trình tình yêu của một du khách” do Netflix (Mỹ) sản xuất quảng bá các cảnh đẹp của Việt Nam trải dài khắp ba miền đất nước.

Rào cản và gợi mở từ thực tiễn

TS Ngô Phương Lan, Chủ tịch Hiệp hội Xúc tiến Phát triển Điện ảnh Việt Nam thông tin, tại hội thảo ở Đại học Harvard với chủ đề “Tính nhân văn và lòng trắc ẩn trong điện ảnh Việt Nam” mà bà tham dự, phim “Cánh đồng hoang”, “Bao giờ cho đến tháng Mười” đã nhận được sự đồng cảm sâu sắc của các bạn Mỹ. Chuyến công tác của bà Lan và cộng sự còn đánh dấu một bước tiến khác khi “Nhóm bạn Việt - Mỹ ủng hộ điện ảnh Việt Nam” được thành lập. Nhóm quy tụ nhiều gương mặt tiêu biểu, trong đó có Đại sứ Việt Nam tại Hoa Kỳ Nguyễn Quốc Dũng, Đại sứ Việt Nam tại LHQ Đặng Hoàng Giang… Đặc biệt, trưởng nhóm hiện nay là ông Michael Dukakis, cựu Thống đốc bang Massachusetts. Đây là một trong những kết quả đáng quý mà chúng tôi đạt được từ các hoạt động thực tế trong chuyến công tác, bà Lan cho biết.

Dù tiềm năng hợp tác lớn, việc thu hút đoàn phim Mỹ còn đối mặt nhiều rào cản. Nhiều nhà sản xuất phim của Mỹ lo ngại thủ tục hành chính, kiểm duyệt và pháp lý phức tạp của Việt Nam. Ngoài ra, vấn đề ưu đãi cho các đoàn làm phim cũng cần tháo gỡ. Theo bà Ngô Phương Lan, Luật Điện ảnh đã có quy định (Điều 41) về ưu đãi thuế cho nhà sản xuất sử dụng bối cảnh Việt Nam, nhưng mới dừng ở mức khung, chưa có nghị định hay thông tư hướng dẫn và còn vướng chồng chéo với Luật Thuế, Luật Tài chính. Trong khi đó, ở Mỹ, nhiều bang áp dụng ưu đãi tới 40%, phổ biến là 25-30%.

Một mối quan tâm lớn khác là vấn đề bảo vệ bản quyền. Tình trạng vi phạm bản quyền tại Việt Nam trên các trang phim lậu như phimmoi, motphim… cũng khiến nhà đầu tư lo ngại, bởi nhiều phim chưa kịp phát hành đã bị rò rỉ. Bà Lan cho biết, các câu hỏi của đối tác Mỹ đặt ra đều rất cụ thể: Đến Việt Nam thì làm gì? Ai hỗ trợ chúng tôi? Có ưu đãi gì? Và ai sẽ bảo vệ bản quyền tác phẩm?... Đạo diễn phim “Đêm tối rực rỡ”, Aaron Toronto cũng chỉ ra ba điểm yếu thực tế ở Việt Nam, chính là hạ tầng hỗ trợ làm phim chưa hoàn thiện, thiếu chính sách ưu đãi thuế và thủ tục hành chính phức tạp. Nếu muốn cạnh tranh với các nước trong khu vực, Việt Nam cần cải thiện đồng bộ cả ba yếu tố này.

Nhìn lại 30 năm, điện ảnh Việt - Mỹ là câu chuyện về sự thay đổi. Từ đối kháng sang đối thoại, từ khoảng cách đến kết nối. Để hành trình này đi tới thành công hơn nữa, cần khắc phục ngay những vấn đề tồn tại cũng như có chiến lược đồng bộ về chính sách, đào tạo, lưu trữ, bảo vệ bản quyền và quảng bá quốc tế.

Theo TS Hà Thanh Vân (Trung tâm Xúc tiến Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam) kho phim Việt - Mỹ, từ những thước phim chiến tranh đầy đối kháng đến các tác phẩm đồng sáng tạo ngày nay là minh chứng cho khả năng đối thoại ký ức và tái thiết bản sắc. TS Vân đề xuất bốn nhóm giải pháp để biến di sản này thành hành trình hợp tác bền vững. Đó là, hợp tác lưu trữ và phục dựng phim song phương; Tăng cường trao đổi đào tạo, liên kết học bổng, thực tập giữa các trường điện ảnh Việt - Mỹ, hỗ trợ sản xuất phim tài liệu, phim ngắn độc lập ; Xây dựng không gian trình chiếu và thảo luận phim chuyên đề, tổ chức liên hoan phim Việt - Mỹ tại các thành phố lớn và phát triển thư viện số; Khuyến khích nhà làm phim trẻ khai thác ký ức, bản sắc bằng góc nhìn phản tỉnh, nhân bản.