Việc ghi danh đồng thời cũng phải tạo ra xung lực mới cho công tác bảo vệ và phát huy giá trị truyền thống, gìn giữ nghề cổ truyền, hỗ trợ nghệ nhân, phát triển sinh kế, tăng cường giáo dục... gắn với di sản dòng tranh dân gian lâu đời nhất cả nước.
Giá trị cổ truyền đối diện thử thách đương đại
Từ trước khi được UNESCO ghi danh, nghề làm tranh dân gian Đông Hồ cũng đã và đang trải qua nhiều thử thách. Cuộc sống hiện đại làm thay đổi không gian làng nghề cũ, các yếu tố tạo nên hệ sinh thái sáng tạo truyền thống dần bị phá vỡ. Lớp trẻ ít gắn bó với nghề làm tranh khiến quá trình truyền dạy bị gián đoạn, nguy cơ thất truyền kỹ thuật cốt lõi đã hiển hiện.
Nay ở làng Hồ, còn ba gia đình kế nghiệp làm tranh với khoảng 20 nhân công có việc làm. Đó là các gia đình nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế, nghệ nhân Nguyễn Hữu Hoa-Nguyễn Thị Oanh và nghệ nhân Nguyễn Hữu Quả. Trong số đó, chỉ tám nghệ nhân giữ vai trò “thợ cả”, thực hiện các khâu quan trọng, từ chỉ đạo sản xuất, giám sát chất lượng đến dạy nghề cho lớp trẻ. Tranh được làm hoàn toàn thủ công tại từng gia đình, số lượng đơn hàng không nhiều và cũng không liên tục.
Ba gia đình trên còn lưu giữ được khoảng 3.000 bản khắc in tranh. Nhưng, tất cả các bản khắc quý giá này chỉ được xếp chồng trong kho, không có các thiết bị bảo quản đủ tiêu chuẩn kỹ thuật. Nhiều khó khăn trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm đã tác động trực tiếp đến “độ bền vững” của nghề, do không bảo đảm sinh kế.
Theo TS Nguyễn Thị Thu Trang, người đã xây dựng nhiều Báo cáo định kỳ quốc gia của Việt Nam gửi UNESCO, dù đối diện nhiều nguy cơ, như tập quán chơi tranh dân gian đã mất, việc tiêu thụ sản phẩm hạn chế, cũng như các hạn chế về nguồn nhân lực, nguồn nguyên liệu tự nhiên…, nhưng các nghệ nhân vẫn cố gắng duy trì nghề. Chính quyền địa phương và ngành văn hóa có những hỗ trợ mạnh mẽ trong các chính sách ưu đãi đối với nghề làm tranh dân gian Đông Hồ. “Các cố gắng đó sẽ tiếp tục ở mức độ cao hơn, với kỳ vọng tranh Đông Hồ sẽ được phục hồi và nghề làm tranh sớm được chuyển sang Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại của UNESCO, như chúng ta đã làm được với Hát Xoan”, TS Nguyễn Thị Thu Trang cho biết.
Kinh nghiệm và hy vọng
Năm 2009, nghệ thuật ca trù của Việt Nam được ghi danh trong Danh sách di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại cần được bảo vệ khẩn cấp. Sau nhiều nỗ lực, số lượng câu lạc bộ và người thực hành Ca trù tăng lên dần. Hiện có trên 100 Câu lạc bộ ca trù hoạt động thường xuyên và đã hình thành lớp người thực hành mới, trẻ tuổi và tài năng. Thực tế, còn nhiều vấn đề cần bàn luận trong việc bảo đảm tính nguyên gốc: về “khổ phách - khổ đàn”, không gian diễn xướng và tính liên tục trong thực hành bảo tồn, phát huy giá trị của di sản ca trù. Nhưng khi cộng đồng tham gia ngày càng chủ động hơn, giới nghiên cứu cùng với các nghệ nhân tiếp tục nỗ lực nghiên cứu, khôi phục và truyền dạy các kỹ năng, kỹ thuật, bài bản truyền thống, việc ca trù sớm đáp ứng tiêu chí ghi danh vào danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại thay vì là di sản “cần được bảo vệ khẩn cấp”… sẽ không chỉ là hy vọng.
Sau sáu năm kể từ khi được ghi vào danh sách của UNESCO Di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp trước nguy cơ mai một, việc khôi phục Hát Xoan đã thành công. Ngày 8/12/2017, Hát Xoan đã ra khỏi danh sách “cần bảo vệ khẩn cấp”, được ghi danh vào Danh sách Di sản phi vật thể đại diện của nhân loại. Các biện pháp phục hồi Hát Xoan sau những nỗ lực bảo tồn và truyền dạy từ nhiều phía ở địa phương Phú Thọ có thể là kinh nghiệm hữu ích cho việc phục hồi và phát triển Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ hôm nay.
Để tri thức dân gian phía sau mỗi bức tranh Đông Hồ được tiếp tục nối dài và ngày càng phong phú, các nghệ nhân cần đóng vai trò là chủ thể truyền thụ nghề tới thế hệ sau. Để góp phần duy trì kỹ nghệ cổ truyền trong đời sống hiện đại, cần kết hợp các chính sách khuyến khích và cả huy động phối hợp các thiết chế văn hóa, như bảo tàng, trung tâm nghệ thuật ở địa phương cũng như trên cả nước, tổ chức định kỳ triển lãm và các chương trình học tập, trải nghiệm tương tác… với tranh và kỹ thuật/nghệ thuật làm tranh dân gian Đông Hồ. Khi các nghệ nhân cảm nhận được sự tôn vinh, trân trọng của cộng đồng, nhận được thêm nguồn lực hỗ trợ hiệu quả từ xã hội dành cho tâm huyết bảo vệ vốn cổ dân gian, họ sẽ có thêm nhiệt huyết phổ biến kiến thức về tranh và nghề làm tranh Đông Hồ. Tất cả sẽ tạo nền tảng tri thức để thế hệ trẻ hiểu sâu hơn giá trị truyền thống và tự nguyện tham gia bảo vệ di sản một cách khoa học.
Bên cạnh đó, các cơ quan chức năng cần sớm xây dựng mô hình sản xuất, kinh doanh phù hợp, giúp nghệ nhân yên tâm giữ “lửa nghề”. Mặt khác, cần thúc đẩy các ngành công nghiệp văn hóa phát triển chuỗi sản phẩm gắn với bản sắc tranh Đông Hồ, từ tranh truyền thống đến các ứng dụng mỹ thuật đương đại, các sản phẩm thiết kế trang trí, quà tặng lưu niệm, ấn phẩm mỹ thuật… Khi thị trường mở rộng, những “người trong cuộc” sẽ có thêm thu nhập, tạo nguồn lực để duy trì và phát triển nghề tranh.