Lê Tràng Kiều, một nhà lý luận phê bình văn học tiên phong

Mãi đến năm 1942, các tác giả Thi nhân Việt Nam mới đánh giá sự thắng lợi trọn vẹn của Thơ mới. Nhưng, ngay từ năm 1936, với loạt bài viết của mình, Lê Tràng Kiều đã khiến độc giả thấy được sự ưu việt tuyệt đối của Thơ mới. Có thể nói, phong trào Thơ mới là một thành công rực rỡ của văn chương dân tộc, và trong cuộc phấn đấu để khẳng định nó, khích lệ nó phát triển đến đỉnh cao, có một vị trí rất vinh dự dành cho Lê Tràng Kiều.

Lê Tràng Kiều, một nhà lý luận phê bình văn học tiên phong

Từ năm 1935, 1936, Lê Tràng Kiều (1912 -1977) có những đóng góp rất đáng kể cho văn học nước ta. Nhất là khi làm chủ bút Hà Nội báo, ông cùng các bạn thân thiết, đã làm cho phần văn học của báo tạo nên một ấn tượng mạnh mẽ trong đời sống xã hội. Những tiểu thuyết như Giông tố, Số đỏ của Vũ Trọng Phụng; những kịch thơ Anh Nga, Tần Ngọc của Phạm Huy Thông... đã được giới thiệu, đăng tải nhiều kỳ trên Hà Nội báo, được độc giả vô cùng tán thưởng. Một nhà thơ trẻ chưa đầy mười lăm tuổi là Nguyễn Xuân Sanh, cũng được Lê Tràng Kiều trân trọng giới thiệu trên Hà Nội báo tác phẩm đầu tay Trường ca lạc loài, đăng liền 13 kỳ báo. Vinh hạnh lớn này suốt đời khích lệ nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh.

Tình bạn văn chương của Lê Tràng Kiều với Vũ Trọng Phụng lại là mối tri kỷ lớn. Đương lúc Vũ Trọng Phụng được độc giả rất hâm mộ bởi một loạt phóng sự đặc sắc như Cạm bẫy người, Kỹ nghệ lấy Tây, Cơm thầy cơm cô..., Lê Tràng Kiều có viết trên Văn học tạp chí số 4, ra ngày 8-6-1935, về ba nhà văn họ Vũ (Tam Lang Vũ Đình Chí, Tiêu Liêu Vũ Bằng, Thiên Hư Vũ Trọng Phụng), biểu dương tài năng của họ; đồng thời, tâm huyết trao đổi với Vũ Trọng Phụng: "Ông Phụng cứ viết cho tôi nữa đi những truyện ngắn hay những truyện dài về xã hội, tôi dám chắc sự nghiệp văn chương của ông sẽ rực rỡ vô cùng...".

Lắng nghe lời tâm huyết của người bạn tri kỷ, Vũ Trọng Phụng lập tức dồn tâm sức vào truyện dài về xã hội, và trong năm 1936, ông sáng tạo nên ba tiểu thuyết xuất sắc, làm vinh dự cho nền văn chương nước Việt ta, là Giông tố, Số đỏ, Vỡ đê. Cuốn tiểu thuyết đầu tiên, nhà văn đặt tên là Thị Mịch, Lê Tràng Kiều cho đăng tải ngay trên Hà Nội báo.Lập tức nhà đương cục đã can thiệp, đòi cấm. Lê Tràng Kiều và Vũ Trọng Phụng, sau một thời gian ngắn, đã quyết định đổi tên tiểu thuyết thành Giông tố, và đăng tải hết trên Hà Nội báo mà giới chức kiểm duyệt không kịp hiểu đó cũng chỉ là chuyện về Thị Mịch, Nghị Hách... Về sau, khi Nhà xuất bản Văn Thanh ấn hành Giông tố, Vũ Trọng Phụng có in lời đề tặng Lê Tràng Kiều trên đầu sách rất trân trọng (*).

Đầu năm 1936, khi cuộc tranh luận về thơ mới, thơ cũ trở nên sôi động, Lê Tràng Kiều có bài viết khá quan trọng. Thơ mới, đăng trên Hà Nội báo số 14, khẳng định giá trị của phong trào Thơ mới và chúc mừng chiến thắng toàn vẹn của nó. Ông viết: "Ba năm qua... Với thi ca, văn học ta đã bước một bước dài. Một sự may mắn không ngờ! Chỉ trong vòng ba năm mà lần lượt đua nhau xuất hiện không biết bao nhiêu tác phẩm có giá trị mà trong dĩ vãng rất phẳng lặng mấy ngàn năm chỉ lơ thơ một vài cái...".

Ngay thời điểm đầu năm 1936 đó, Lê Tràng Kiều đã có tầm nhìn sâu rộng và khả năng tư duy rất chín chắn về thơ ca dân tộc, không sa vào sự thái quá có mới nới cũ: "Từ bây giờ, lịch sử chỉ còn ghi lại những áng thơ hay mà thôi, chứ không chia ra mới, cũ nữa!...". Ngay sau đó, nhiều bài viết bảo vệ thơ cũ đã đả kích Hà Nội báovà bài Thơ mới của Lê Tràng Kiều. Trong đó, đáng kể nhất là bài viết bừng bừng nộ khí của ông Thái Phỉ, in trên báo Tin văn; tờ Văn học tuần san ở Sài Gòn cũng đồng quan điểm với Tin văn, công kích Lê Tràng Kiều và Thơ mới. Cuộc bút chiến trở nên quyết liệt hơn. Lê Tràng Kiều lại công bố trên Hà Nội báo số 18 bài Thơ mới nữa, với sự khẳng định: "Những bài thơ như Tiếng thu, Bao la sầu, Một chiều thu không phải là di sản của một gia đình nào, của một phe phái nào, của một thời gian nào, nó đáng cho mọi người trong nước ngâm nga, đáng dịch ra tiếng ngoại quốc cho người ta thấy rằng dân tộc ta không phải là không có người hiểu cái hay, cái đẹp ở đời...". Thế rồi, quy mô hơn, sâu sắc hơn, Lê Tràng Kiều cho đăng một loạt bài tiếp theo trên Hà Nội báo, lần lượt khẳng định giá trị Thơ mới và những tài năng trong phong trào Thơ mới; khẳng định tính sâu sắc, tính đa dạng, tính phổ quát, tính cội nguồn, tính cách tân đều có trong các nhà Thơ mới; rằng Thơ mới đã làm trẻ lại, làm sung sức tâm hồn dân tộc.

Bài viết về nhà thơ Thái Can đăng trên Hà Nội báo số 20, Lê Tràng Kiều chứng minh rằng, thơ Thái Can mới mà rất gần với thơ cổ điển phương Đông. Ông viết: "Nếu trong các thi sĩ mới, có một thi sĩ gần với Nguyễn Khắc Hiếu, Chu Mạnh Trinh, Bà Huyện Thanh Quan hơn hết, thì là Thái Can". Đến bài về thơ Nguyễn Nhược Pháp trên Hà Nội báo số 21, Lê Tràng Kiều nêu bật phẩm chất bình dị, hồn nhiên, trong sáng. Ông đánh giá rằng, nhà thơ mới này đã dựng lại một thế giới ngày xưa. Ông thật uyên thâm khi nhận xét rằng, văn thơ nước ta đã già đi với đạo Khổng, nhưng với Thơ mới, nó đã bắt đầu trẻ lại.

Trên Hà Nội báo số 22, Lê Tràng Kiều viết về Thơ mới có ngay trong thơ Đông Hồ, khen Đông Hồ thoát xác từ một thi sĩ cũ trở thành một nhà thơ có khuynh hướng mới: "Đông Hồ ngày trước là một ông cụ non lụ khụ... Nay thì Đông Hồ, với cái tuổi sắp đứng, còn biết yêu như yêu lần đầu tiên, nồng nàn, tha thiết". Tới bài viết về thơ Nguyễn Vỹ, Hà Nội báo số 23, Lê Tràng Kiều nhận xét nhà thơ này quá mới, và cho rằng, Thơ mới ngoài hàm chứa cái hay cổ điển còn phải vô cùng mới về hình thức biểu hiện. Ông nhấn mạnh thành công của Nguyễn Vỹ qua bài Sương rơi: "Đó là nhạc điệu thiên nhiên của những vật hữu hình và vô hình trong vũ trụ lúc đêm khuya, những vật ấy nối tiếp nhau mà tan vỡ thành giọt... Từng giọt/Thánh thót/Từng giọt/Điêu tàn...".

Cũng như vậy, Lê Tràng Kiều nhận xét về sự đóng góp của Nguyễn Vỹ cho thơ ca Việt Nam: "Làm được một bài như Sương rơi cũng là nhiều lắm rồi". Bài viết về thơ Thế Lữ, Hà Nội báo số 24, nhà phê bình đã chứng minh thơ mới Thế Lữ phần nào đã đạt tới cái hay cổ điển. Ông thật tinh tế khi nhận xét Thế Lữ "có tâm hồn của một người tiên chưa hề có một quá khứ đau khổ ở trần gian". Bài viết về thơ Vũ Đình Liên trên Hà Nội báo số 26, Lê Tràng Kiều nhận định, thơ mới của nhà thơ này đã làm sống lại dĩ vãng, sống lại những gì vô cùng thân yêu trong quá khứ. Ông còn lưu tâm đến một phẩm chất khá đặc biệt trong thơ Vũ Đình Liên, khi nêu dư luận rằng, có người đánh giá: "Vũ Đình Liên là một nhà thơ lao động, vì hơn nửa số tác phẩm của ông dành cho anh em lao khổ".

Tới Hà Nội báo số 30, Lê Tràng Kiều viết về Lưu Trọng Lư, "người đầu tiên gieo hạt Thơ mới vào đất Bắc". Ông so sánh Lưu Trọng Lư với Thế Lữ và Phạm Huy Thông, chỉ vài dòng mà thật đắc cách: "Thế Lữ và Huy Thông thường ngẩng đầu lên nhìn trời, nhìn núi sông to rộng mà ca những bài ca hùng tráng... Lưu Trọng Lư thì cúi đầu xuống bước từng bước sợ sệt ngại ngùng như bao giờ cũng lo đạp phải những cái linh thiêng của trời đất rải xuống". Ông khẳng định phẩm chất của thơ Lưu Trọng Lư là rất giàu nhạc điệu, và khẳng định đó cũng là phẩm chất tiêu biểu của Thơ mới...

Nay nhìn nhận lại hiện tượng Thơ mới, chúng tôi thấy, giai đoạn từ 1934 đến 1936, trên văn đàn Việt Nam diễn ra một cuộc tranh luận có lúc rất quyết liệt giữa những nhà văn không tán thành Thơ mới với những nhà văn cổ võ, khích lệ cho Thơ mới phát triển. Là bạn của Lê Tràng Kiều, Hoài Thanh cũng chỉ viết có một bài Thơ mới, đăng trên Tiểu thuyết thứ bảy số 31, ngày 29-12-1934. Trong bài có đoạn: "Vậy bây giờ Thơ mới có quy tắc gì chưa? Hiển nhiên là chưa có. Không theo phép tắc khuôn khổ xưa thì người ta gọi là mới, hai chữ Thơ mới hiện nay chỉ có thể định nghĩa một cách tiêu cực như vậy mà thôi...".

Nhìn lại việc này, chúng tôi không có mục đích gì ngoài việc muốn lưu ý với bạn đọc về tầm nhìn sâu rộng, tư duy lý luận sắc bén và phẩm chất tiên phong của nhà lý luận phê bình văn học Lê Tràng Kiều. Với một loạt bài viết, ông đã trình bày được tất cả sự đa dạng, phong phú muôn màu muôn vẻ của nghệ thuật Thơ mới, có sức thuyết phục rất lớn trong đời sống văn chương đương thời.