Điện gió muốn vươn khơi phải có đột phá

Trong bối cảnh các nguồn nhiên liệu hóa thạch ngày càng cạn kiệt, giá cả leo thang,... việc phát triển năng lượng bền vững là mối quan tâm hàng đầu của các quốc gia trên thế giới nhằm thực hiện cam kết quốc tế về chống biến đổi khí hậu. Không nằm ngoài xu thế đó, phát triển các loại hình năng lượng tái tạo là một trong những chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước, Chính phủ Việt Nam, và điện gió ngoài khơi được xác định là giải pháp đột phá, đầy triển vọng.
0:00 / 0:00
0:00
Dự thảo Quy hoạch điện VIII đặt mục tiêu đạt 7.000MW điện gió ngoài khơi vào năm 2030.
Dự thảo Quy hoạch điện VIII đặt mục tiêu đạt 7.000MW điện gió ngoài khơi vào năm 2030.

Trang trại điện gió ngoài khơi, tiềm năng chờ khai mở

Ở vị trí địa lý và điều kiện khí hậu thuận lợi, Việt Nam được đánh giá là quốc gia có tiềm năng lớn để phát triển điện gió ngoài khơi. Theo Ngân hàng Thế giới (WB) và Cơ quan Năng lượng Đan Mạch, với bờ biển dài và tiềm năng gió dồi dào, điện gió Việt Nam có tiềm năng ước đạt 475GW, trong đó tiềm năng kỹ thuật khoảng 160GW.

Báo cáo về tiềm năng năng lượng gió, sóng ngoài khơi tại các vùng biển Việt Nam của Tổng cục Khí tượng thủy văn (Bộ Tài nguyên và Môi trường) cho biết, các vùng biển có khả năng khai thác tiềm năng năng lượng gió tốt nhất là: từ Bình Định đến Ninh Thuận, Bình Thuận đến Cà Mau, và một phần vùng biển trung tâm vịnh Bắc Bộ. Đặc biệt, tiềm năng gió đạt ở mức tốt đến rất tốt ở khu vực biển Ninh Thuận đến Bà Rịa-Vũng Tàu, với tốc độ gió trung bình từ 8m-10m/s, mật độ năng lượng trung bình năm phổ biến từ 600W đến trên 700W/m2.

Báo cáo công bố hồi tháng 6 của Hội đồng Năng lượng gió toàn cầu (GWEC) cho hay, năm 2021, thế giới chứng kiến số lượng turbine gió được lắp đặt ngoài khơi nhiều nhất từ trước đến nay, với 21,1GW công suất mới được bổ sung vào lưới điện.

Dự thảo Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045 (Quy hoạch điện VIII) được Bộ Công thương trình Chính phủ xem xét, phê duyệt, đặt ra mục tiêu sẽ phát triển khoảng 16.121MW điện gió trên bờ và gần bờ cùng khoảng 7.000MW điện gió ngoài khơi vào năm 2030. Tỷ trọng điện gió chiếm khoảng 15,8% tổng công suất hệ thống, trong đó điện gió ngoài khơi là 4,8%.

Năng lượng gió ngoài khơi là một nguồn năng lượng tái tạo có triển vọng phát triển lớn, có thể lắp đặt các trang trại điện gió ngoài khơi trên vùng biển rộng lớn. Tốc độ gió trên đại dương thường ổn định và mạnh hơn trên đất liền, nên ưu điểm chính của năng lượng gió ngoài khơi là khả năng tạo ra điện cao hơn so với năng lượng gió trên bờ. Một điểm cộng khác là các địa điểm ngoài khơi để triển khai trang trại điện gió không bị giới hạn, đồng thời ít hoặc không xảy ra xung đột với cộng đồng cư dân (vốn là một khó khăn đối với phát triển điện gió trên bờ). Với việc đầu tư vào hệ thống truyền tải cũng như điều độ thông minh, điện gió hoàn toàn có thể trở thành nguồn chủ đạo của hệ thống năng lượng Việt Nam trong tương lai, qua đó giảm lệ thuộc vào nguồn nhiên liệu hóa thạch nhập khẩu.

Định hướng phát triển điện gió ngoài khơi được Đảng xác định là động lực quan trọng trong Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 tại Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Ban Chấp hành Trung ương về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Nghị quyết số 55/NQ-TW ngày 11/2/2020 của Bộ Chính trị về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn năm 2045;...

Chờ được... định danh

Cùng với mục tiêu bảo đảm an ninh năng lượng, phát triển bền vững, phát triển điện gió ngoài khơi còn góp phần tạo ra hàng nghìn việc làm, và từng bước hình thành ngành công nghiệp phụ trợ hỗ trợ cho lĩnh vực phát triển điện gió tại Việt Nam.

Tính đến ngày 31/8/2022, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã nhận được 55 đề xuất khảo sát điện gió ngoài khơi; trong đó, có một đề xuất đo gió đã được Bộ chấp thuận (do nhà đầu tư trong nước đề xuất, diện tích 36m2 để lắp đặt trạm Lidar gió trên biển phục vụ lập báo cáo nghiên cứu khả thi Dự án Nhà máy điện gió ngoài khơi Bến Tre). Ngoài ra, theo thống kê chưa đầy đủ từ các địa phương có biển, có khoảng 40 đề xuất khảo sát điện gió ngoài khơi, có phạm vi vùng biển từ sáu hải lý trở vào thuộc thẩm quyền thẩm định, chấp thuận của UBND cấp tỉnh.

Cơ hội lớn, nhưng phát triển điện gió ngoài khơi ở Việt Nam đang đối diện những bài toán lớn như: khó huy động nguồn vốn lớn; tính chất phức tạp về kỹ thuật và công nghệ khiến cho dự án trải qua nhiều quy trình và trình tự thủ tục đầu tư… Đây cũng là lý do khiến cho hàng chục dự án điện gió được xây dựng, vận hành trong thời gian qua đều là những dự án trên đất liền, hoặc gần bờ.

Về công tác quy hoạch, hiện nay, Dự thảo Quy hoạch điện VIII chỉ mới phân bổ công suất điện gió ngoài khơi theo vùng, chưa có theo địa phương. Sau khi Quy hoạch VIII được phê duyệt, Bộ Công thương mới dự kiến tiếp tục xây dựng kế hoạch thực hiện Quy hoạch, làm cơ sở để xác định quy mô công suất các dự án phân theo từng địa phương, tiếp đó mới đến công tác lựa chọn nhà đầu tư...

Về khung chính sách, lộ trình xây dựng và ban hành cơ chế chính sách giá cho các dự án điện gió ngoài khơi đến nay chưa được chuẩn bị, thiếu các chỉ dẫn cụ thể và rõ ràng, đặc biệt là quy định như thế nào được gọi là dự án điện gió ngoài khơi, cũng là những khó khăn cần tính tới. Cụ thể, Quyết định số 39/2018/QĐ-TTg ngày 10/9/2018 của Thủ tướng Chính phủ chỉ đưa ra quy định điện gió trên bờ và ngoài khơi, trong khi Dự thảo Quy hoạch điện VIII đề cập điện gió trên bờ, gần bờ và ngoài khơi.

Bên cạnh đó, chưa có đủ căn cứ kỹ thuật đồng bộ nhằm xác định khu vực biển dành cho phát triển điện gió ngoài khơi theo lộ trình quy hoạch phát triển điện lực. Các quy định về cho thuê biển còn chưa rõ ràng, chưa tương ứng với các giai đoạn phát triển dự án điện gió ngoài khơi. Hiện nay chưa có quy định, tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật công nghiệp cho điện gió ngoài khơi. Đặc biệt quy định về mật độ công suất (công suất lắp đặt trên km2) của các trang trại điện gió ngoài khơi…

Điều đáng nói, theo Bộ Tài nguyên và Môi trường, Nhà nước vẫn chưa có quy định cụ thể về hồ sơ, tài liệu, trình tự, thủ tục, thời gian giải quyết việc chấp thuận hoạt động đo đạc, quan trắc, điều tra, khảo sát, đánh giá tài nguyên biển; cũng chưa có quy định về diện tích khu vực biển chấp thuận cho sử dụng để đo gió, khảo sát địa chất, địa hình, đánh giá tác động môi trường trên biển là bao nhiêu ha trên 1MW công suất dự kiến đối với từng khu vực biển; chưa có quy định công suất điện gió tối đa cho một dự án là bao nhiêu chẳng hạn như: 0,5GW, 1GW hay 2GW... để vừa bảo đảm khuyến khích nhà đầu tư tham gia dự án, vừa bảo đảm cân đối hệ thống truyền tải điện. Trước những vướng mắc này, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã đề xuất Chính phủ tạm dừng thẩm định, chấp thuận về vị trí, ranh giới, diện tích, tọa độ, độ sâu, thời gian sử dụng khu vực biển cho đến khi Chính phủ ban hành Nghị quyết về hoạt động đo gió, quan trắc, điều tra, khảo sát địa chất, địa hình, đánh giá tác động môi trường trên biển.

Giám đốc điều hành Tổ chức Sáng kiến về Chuyển dịch Năng lượng Việt Nam (VIETSE) Ngô Thị Tố Nhiên cho rằng: Để thúc đẩy phát triển điện gió ngoài khơi, cần thiết lập các mục tiêu cụ thể thông qua các bản quy hoạch quốc gia như: Quy hoạch không gian biển quốc gia, Quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ, Quy hoạch năng lượng và Quy hoạch phát triển điện lực để làm căn cứ cho việc triển khai các dự án điện gió ngoài khơi. Thực hiện các mục tiêu quy hoạch, cần có cơ chế chính sách cụ thể về vai trò quản lý các cấp, phương thức cho thuê biển gắn với mật độ công suất lắp đặt nhằm tối ưu hóa việc sử dụng tài nguyên biển để phát triển điện gió ngoài khơi. Ngoài ra, các quy định căn bản về tiêu chuẩn kỹ thuật, hướng dẫn đánh giá các tác động môi trường xã hội... cũng cần được hoàn thiện.

Song song quá trình định hình thể chế, chính sách, một việc cần thực hiện là đánh giá và xác định cụ thể vai trò của các tập đoàn năng lượng nhà nước tham gia chuỗi cung ứng phát triển điện gió ngoài khơi, đặc biệt là vai trò của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) và Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN). Theo các chuyên gia, để thúc đẩy sớm hình thành ngành công nghiệp điện gió ngoài khơi, những giải pháp mang tính đột phá của Nhà nước là vô cùng quan trọng.

Ông Trần Viết Ngãi - Chủ tịch Hiệp hội Năng lượng Việt Nam:

Ðòn bẩy phát triển chuỗi giá trị công nghiệp hỗ trợ và logistics

Nhờ vào tiến bộ của khoa học công nghệ mà điện gió ngoài khơi mang lại hiệu suất đầu tư lớn. Trong khi điện gió trên bờ chỉ lắp được turbine công suất 3-4MW, thì turbine điện gió ngoài khơi đã có loại công suất lên đến 40MW, 50MW. Như vậy, một turbine điện gió ngoài khơi cũng tương đương một dự án nhà máy thủy điện vừa ở Việt Nam. Để phát triển thị trường năng lượng bền vững, bảo đảm các cam kết quốc tế, phát triển năng lượng tái tạo nói chung, trong đó có điện gió ngoài khơi được đặt ra cấp thiết.

Cùng với năng lực và kinh nghiệm xây dựng các công trình ngoài khơi, các công trình biển và hệ thống logistics phụ trợ của ngành dầu khí hiện nay, Việt Nam có đủ các yếu tố để phát huy tốt nội lực trong việc phát triển ngành công nghiệp điện gió ngoài khơi gắn với chuỗi giá trị công nghiệp hỗ trợ và dịch vụ logistics trong những năm tới. Vấn đề là phải sớm hoàn thiện các quy hoạch liên quan, xây dựng cơ chế, chính sách hợp lý để thu hút các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài vào lĩnh vực mới mẻ này ở Việt Nam.