Hạ lưu sông Ðáy, đất Ninh Bình đầu thế kỷ 11, đến chùa Ðông Hải - chùa Thiên Ðô, còn nghe sóng vỗ. Phía trước trông xa bóng Hòn Nẹ, Thần Phù, núi An Tiêm, động Từ Thức... Dải núi có hang động kéo dài địa mạch Tam Ðiệp - Biện Sơn, mục đầu của dãy Trường Sơn. Chúng tôi về Nga Sơn thăm căn cứ Ba Ðình, nơi tụ nghĩa dưới cờ Cần Vương của Lãnh binh Ðinh Công Tráng, (quê Nham Tràng, Thanh Liêm, Hà Nam), thời đầu kháng Pháp, rồi thuê thuyền, tìm vào nơi phát tích câu ca:
Lênh đênh qua cửa Thần Phù
Khéo tu thì nổi, vụng tu thì chìm...
Ðủ biết, thời ấy sóng dữ, réo quanh ngọn núi có chữ 'Thần', thủ bút của chúa Trịnh Sâm (1771) đánh dấu mốc cửa biển Thần Phù, nay 'Cửa Thần' đã yên vị trong đất liền (xã Nga Thiện, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa). Biển mênh mông bãi ngang vốn nông, lại không có dòng hải lưu chảy qua, phù sa sông Hồng, sông Thái Bình trườn theo hướng Ðông Bắc - Tây Nam, được núi che chắn sóng, làm cho mặt biển khá êm, lại gặp lúc trời yên gió thuận chỉ vài ngày đoàn dời đô vượt biển an toàn, còn địa lợi đến thời nay cho ta mở những khu nghỉ mát, du lịch...
Sông cũ đổi dòng, thắt cổ bồng ôm trọn miền đất sa non mơn mởn như dáng nàng tiên nữ uốn mình trước biển. Cát ngấy mặn, nơi có thứ rau Quan Âm, hạt tám thơm, nếp cái hoa vàng ta chỉ được thưởng thức vào dịp lễ Tết cổ truyền. Nhớ ngày về thăm nông trường Rạng Ðông, gặp cán bộ, chiến sĩ miền nam tập kết ra bắc, đang ngày đêm đắp đê lấn biển, trồng cói, cấy lúa. Ðêm văn nghệ đoàn kết Bắc - Nam, tôi xúc động đọc bài thơ tặng các chiến binh anh hùng phương nam: Sông thắt cổ bồng xòe nếp váy/ Vòng eo hoa lý nước non mình/ Sông Ðáy, sông Ninh chùng dải lụa/ Gió quẩn theo chân gái Ðông Bình./ Ai bảo đất này như hũ rượu/ Cất bằng men ruộng nếp Quần Liêu/ Ta bảo đất này như chiếc đó/ Ðơm cả khơi xa, nhịp thủy triều/ Ai bảo đất này như sanh cói/ Dệt vừa cả nước chiếu gường đôi/ Ta bảo đất này như hạt tám/ Thơm thảo lòng dân tự mấy đời... Ðừng ví von nhiều e chẳng đủ/ Mười năm một xã biển cho người/ Ðầu sóng Cồn Mờ vừa lấp ló/ Rạng Ðông chừng đã bớt xa xôi (Miền Hạ)...
Vịnh biển ấy, năm Thiên Cảm Thánh Vũ thứ nhất (Giáp Thân 1044), vua Lý Thái Tông xuất quân chinh phục Chiêm Thành qua cửa Ðại Ác. Giai thoại còn ghi, vua tôi nhà Lý được Áp Lãng Chân Nhân trợ giúp, sóng yên, bể lặng, ngài đổi tên là cửa Ðại An, nay thuộc tỉnh Nam Ðịnh.
Thuyền quân đưa vua Lý và tướng sĩ trở về kinh đô theo mạch sông Hồng, đến hành điện Lý Nhân (xã Phú Phúc, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam), nơi này bao lần đón nhà vua nghỉ khi đi kinh lý bên ngoài, khi về cày ruộng tịch điền, xem dân gặt lúa...
Hai thế kỷ sau, tháng Chạp năm Tân Hợi (1311), Trần Anh Tông xuất chinh đường biển, vỗ yên biên thùy phía nam. Có lẽ từ đó con đường du lịch biển Việt Nam mở ra tự thời trung đại. Bình yên trở về, ngài ghé thuyền thăm núi An Tiêm - Sự tích trái dưa thời Hùng Vương, lại thăm động đá tương truyền nơi Từ Thức gặp Tiên... Thuận buồm, ghé thăm Dục Thúy Sơn, ứng tác bài thơ 'Ðánh Chiêm Thành về đậu thuyền cửa biển Phúc Thành', đủ biết thời đó, đất thành phố Ninh Bình vẫn được coi là cửa biển. Huyện Kim Sơn, mãi tới năm Minh Mệnh thứ 10 (1830) mới được lập do công Nguyễn Công Trứ.
Bờ biển Nam Ðịnh dài 72 cây số, công đầu khai khẩn thuộc các quý tộc nhà Trần. Trưởng công chúa Thái Ðường, con vua Trần Thái Tông, được vua cha hạ giá gả cho Hầu tước Vũ Tính quê Lục Ngạn (Bắc Giang). Tướng Vũ Tính tham gia trận đánh quân Nguyên ở ải Nội Bàng. Chồng mất, công chúa xin triều đình cho về khai khẩn đất Bắc Hà - Thi Liệu (xã Ðại Thắng, huyện Vụ Bản), giờ chỉ cách thành phố Nam Ðịnh non chục cây số. Làng mới do công chúa lập có trại thủ (đầu làng), trại vỹ (cuối làng), còn có cả soi chợ (bãi chợ), bãi phơi lưới...
Bãi biển nương dâu, đến thời Lê mới thấy các vị liệt tổ xứ Quần Anh (huyện Hải Hậu), tìm đến khai hoang lập ấp. Theo thư tịch 'Ðịa án tư điền thế nghiệp' do các liệt tổ tâu trình lên triều đình vua Lê, xin khai thác bãi bồi Lạch Lác, ghi rõ mốc giới tứ cận. Theo đó, phương Ðông trông ra Núi Nẹ, Thần Phù. Phương Nam: 'Quán vu thập bát xích thủy thâm', có nghĩa là mốc giới biển tới độ sâu 18 sải nước thềm lục địa, vẫn thuộc giang phận Quần Anh...
Còn đất Thái Bình, thời Ðinh - Tiền Lê cũng ầm ì sóng biển. Bố Hải Khẩu (thành phố Thái Bình), nơi đóng quân của tướng Trần Minh Công (một trong Mười hai sứ quân). Theo 'Bùi gia thế trạch', (gia phả họ Bùi), mô tả thời đó, Bố Hải hoang vu, bãi lầy sú vẹt thành rừng, sông lớn chảy qua có thuồng luồng, cá độc, lại có trại Phương Man của người Chiêm Thành sinh sống (nay xã Thụy Dũng, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình)... Từ năm 1828, cư dân các ngả từ Kiến Xương, Vũ Thư, cả dân tỉnh Nam Ðịnh, Hà Nam,... lưu tán vì các trận hồng thủy, tìm đến khẩn hoang, lập ra những lý, giáp, hình thành đất đai huyện Tiền Hải, (Tiền Hải có nghĩa là đất trước biển)...
Ôn cố tri tân, để hình dung bãi biển thuở xưa từng là một cung đường do Thiên Ðô tiên phong tướng quân Ðào Cam Mộc dong thuyền dời đô mùa Thu năm Canh Tuất (1010). Ðâu phải không gặp trở ngại, nhưng do chuẩn bị kỹ, đoàn thuyền hơn trăm mũi giương buồm, thuận gió, kíp lên thành Ðại La, nơi kinh đô mới. Thế mà đã nghìn năm qua...
----------------
Tham khảo 'Lịch sử Ðảng bộ Thái Bình', NXB Chính trị Quốc gia 2000. 'Quần Anh dấu xưa mở đất' Hội VHNT Nam Ðịnh 2003.