Nhà văn Nguyễn Quang Sáng:

“Chơi để viết, viết để mà chơi...”

Bạn bè nói ông Sáng ham chơi. Ông đi nhiều, ham chơi tới mức nhiều người hỏi không biết ông sáng tác vào lúc nào. Đồng nghiệp văn chương lại trầm trồ, rằng ông Sáng có sức làm việc đáng nể. Số trang viết của ông nhiều tới mức làm người ta thắc mắc, viết khỏe vậy thì thời gian rảnh nào để thu nạp vốn sống. Chỉ tác giả “Chiếc lược ngà” biết rõ, với ông, “Chơi là để viết và viết để mà chơi. Đơn giản vậy thôi” - ông cười hóm hỉnh.
“Chơi để viết, viết để mà chơi...”

Mấy năm nay, nhà văn Nguyễn Quang Sáng chuyển về quận 7 (TP Hồ Chí Minh). Mảnh đất ngoại thành với căn nhà cũ nát ông mua ngày nào, giờ được cậu con trai cả là kiến trúc sư biến thành căn biệt thự ba lầu thoáng đãng, yên bình. Khoảnh sân nhỏ trước nhà rợp bóng cây sa kê, chiếc bàn nhỏ không bao giờ thiếu ấm trà Thái Nguyên đậm đà. Ông lặng lẽ ngồi đó, làn khói thuốc mỏng mảnh vờn quanh mái tóc bạc trắng như cước. Chợt nhớ tới lời nhà phê bình văn học Ngô Thảo: “Nhà văn sinh ra như để gánh trên vai nhiều trọng trách. Riêng ông Nguyễn Quang Sáng chẳng chịu gánh cái gì nhưng mang lại một gánh sách cho đời...”.

- Trong một lần trò chuyện với báo giới, ông tâm sự: “Thiệt lòng tôi đến với nghề viết rất ngẫu nhiên. Từ nhỏ tới lớn, tôi không bao giờ mơ tưởng mình trở thành nhà văn...”. Vậy có phải văn chương đã chọn ông...?

- Lúc nhỏ, tôi giỏi toán chứ môn văn chỉ tàm tạm. Cả An Giang ngày đó chỉ mình tôi thi đỗ và giành học bổng của tỉnh. Tôi học toán đến thầy giáo còn “ngán”, thầy đi vắng là tôi dạy thay luôn. Bạn thân ngồi cùng bàn với tôi chính là nhà văn Lê Vĩnh Hòa (tên thật là Đoàn Thái Hối). Hòa vốn giỏi văn, tôi thì mê đánh đàn băng-giô. Ai cũng nghĩ tôi sẽ chơi nhạc, Hòa sẽ viết văn. Ngờ đâu, sau này, cả hai đều trở thành nhà văn cả (cười). Cả đời tôi chỉ biết sống và viết, kiếm tiền nuôi gia đình nhỏ cũng chỉ từ cây bút. Giờ nghĩ lại, tôi mới thấy, nếu không viết văn thì tôi cũng chẳng biết làm việc gì khác. Âu là cái duyên, cái nghiệp.

- Là nhà văn của miền tây Nam Bộ, vì thế, dù ông có viết về con người thành phố thì những nhân vật ấy vẫn đậm đà mang sự phóng khoáng và cách hành xử rất “anh Hai”?

- Làng Mỹ Luông quê tôi nằm bên bờ sông Tiền Giang vốn vừa thơ mộng vừa dữ dội. Tôi hay kể về mảnh đất thuộc tỉnh An Giang cũng vì đó vừa là nơi chôn nhau cắt rún, vừa là quê hương văn học của tôi. Hầu hết các nhân vật của mình, tôi đều đưa họ về làng, cho họ “tắm” trên dòng sông Cửu Long, để họ “đi” trên những con đường, “chạy” giữa vườn xoài lúc lỉu, dẫn họ “xuống” ghe, “ngồi” xuồng mùa nước lũ, yêu cầu họ “hít thở” bầu không khí đậm đặc của miền tây. Để rồi sau đó mời họ “bước vào” trang giấy trắng và trở thành những anh Bảy Ngàn (Một chuyện vui), anh Ba Hoành (Quán rượu người câm), cô giao liên (Chiếc lược ngà) hay ông Năm Hạng trong truyện ngắn cùng tên... Ai cũng mang ít nhiều mầu sắc hồn cốt của dải đất, ngôi làng ven sông đã nuôi dưỡng tôi suốt những tháng năm thơ ấu.

- Điểm nhấn giúp tác phẩm của ông neo lại lâu bền trong lòng bạn đọc chính là những chi tiết đắt giá, độc đáo. Bí quyết giúp ông có được “những hạt bụi vàng giúp tác phẩm tỏa ánh sáng lấp lánh” ấy là gì vậy?

- Tôi nghĩ, văn học là tổng hợp của những chi tiết. Mà chi tiết trong đời sống thì chẳng ai có thể sáng tác được. Những chi tiết “đắt”, tôi đều gom nhặt được trên đường hành quân, trong những chuyến đi dài mà sự sống và cái chết chỉ cách nhau một sợi chỉ mỏng manh. Tôi luôn tránh dùng cụm từ “đi thực tế sáng tác”, bởi tôi nghĩ phải “sống thật trong thực tế” mới có đủ vốn liếng để viết. Vào chiến trường, bom đạn đâu biết anh là nhà văn mà chừa ra. Cũng nhờ những chuyến đi, tôi mới biết “xẻ dọc Trường Sơn” dù sao cũng khó chết hơn bởi đi chút, nghỉ chút. Nhưng hành quân trên đồng nước Cửu Long thì đừng hy vọng nghỉ ngơi. Trực thăng luôn soi đèn, Dakota thả pháo sáng, đi giữa đêm vẫn phải ngụy trang. Nấu cơm không được có khói, tắm sông không để lại dợn sóng, con gà trống được đạp mái nhưng không được phép gáy..., làm sao tôi đủ tầm để sáng tác, hư cấu cho nổi. Những chi tiết độc đáo ấy được tôi lưu giữ trong đầu rất lâu, lúc cần là “bung”, đúng lúc, đúng chỗ là “ăn điểm”.

- Ông có thể đưa ra vài thí dụ?

- Như trường đoạn vợ chồng Ba Đô phải cho đứa con trai vào bịch ni- lông, dìm xuống nước để tránh bị “cán gáo” phát hiện, tôi nuôi chi tiết từ năm 1966 - 1967, để rồi hơn chục năm sau mới sử dụng trong kịch bản Cánh đồng hoang. Với tôi, sáng tác là chép lại những câu chuyện đã hình thành kỹ lưỡng trong đầu. Đã có những truyện ngắn đeo đuổi trong tâm trí tôi cả thập kỷ nhưng đến giờ vẫn chưa chín nên chưa viết ra. Nhiều chi tiết giờ nghĩ lại tôi vẫn thấy tức cười, như chuyện anh Bảy Ngàn “cởi quần trỏ c. lên trời” trêu thằng lái trực thăng cho bõ ghét hay chuyện cô giao liên bán bánh đắt hàng nhờ bí quyết “se bánh tằm bằng cái bắp vế của cổ”... Ngẫm ra, đời văn có đôi chút thành công là nhờ tôi đi nhiều, cứ phơi phới theo chân giao liên, bộ đội trên mọi nẻo đường. Lời ăn tiếng nói, lối sống, nếp nghĩ của bà con nhập vô mình, biến thành ngôn ngữ riêng, đâm ra lại độc đáo.

- Đi nhiều, “sống thật trong thực tế” nhiều, dòng máu Nam Bộ luôn rần rật chảy trong huyết quản, nên ông cũng nổi tiếng là nhà văn “chơi hết mình”, bên cạnh khả năng “làm việc hết mình”?

- Thì đúng vậy, tôi chơi hoài mà. Vài năm trước, ngày của tôi bắt đầu nơi quán cóc cà-phê lề đường. Ngồi với đủ loại người, nghe đủ loại chuyện. Giờ về nhà mới, xa trung tâm nhưng bạn bè gọi đi nhậu là tôi hiếm khi từ chối. Bạn rượu bây giờ phần lớn đều ít tuổi hơn tôi. Ngày còn trẻ, tôi chọn chơi với mấy ông già để học hỏi. Giờ họ lẫn cẫn, già lão như tôi, học gì nữa. Vì thế, tôi chọn ngồi với người trẻ, họ sẽ bắc nhịp cuộc sống hôm nay để mình không trở nên lạc hậu. Nói vậy thôi chứ dù đã ở tuổi bát tuần, tôi vẫn phải lao động, để cái đầu không bị mụ mẫm. Năm 2008, tôi vẫn còn rong ruổi với chuyến đi khắp miền tây, cùng một doanh nghiệp kiên cố những cây cầu khỉ cho bà con đỡ cực. Mới đây, để hoàn thành kịch bản 30 tập Khoảnh khắc Võ Văn Kiệt, tôi vẫn phải về lại những địa danh đã gắn với ông Sáu Dân năm xưa để lấy cảm xúc. Mọi người hay đùa tôi, “già rồi mà vẫn còn gân lắm”.

Nhớ lần chuẩn bị đi B, tôi ra quán cơm tám giò chả nổi tiếng ở phố Huế, bao nguyên một bàn và mời khách xung quanh cùng ăn. Có người thưa tới tận Hội Nhà văn Việt Nam rằng tôi chơi ngông, lãnh đạo Hội cười xòa, “cha Nam Bộ sắp vào chiến trường, còn ít tiền cho xài nốt chứ để làm chi”. Bạn bè bảo, “đến chơi cũng đúng kiểu anh Hai, bất cần, phóng khoáng”, tôi nhớ mãi.

- Trân trọng cảm ơn ông về cuộc trò chuyện thú vị !

* Nhà văn Nguyễn Quang Sáng

Sinh năm 1932 tại xã Mỹ Luông, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Trong kháng chiến chống Pháp, ông gia nhập quân đội và hoạt động ở chiến trường miền nam. Sau năm 1954, ông tập kết ra bắc và bắt đầu sự nghiệp viết văn. Những năm kháng chiến chống Mỹ, ông quay lại miền nam, cùng tham gia cuộc kháng chiến và tiếp tục sáng tác (cho cả hai loại hình văn học và điện ảnh) từ đó cho tới tận bây giờ, khi đã ở tuổi 80.

Tác phẩm tiêu biểu:

Văn xuôi: Con chim vàng, Người quê hương, Nhật ký người ở lại, Đất lửa, Chiếc lược ngà, Bông cẩm thạch, Cái áo thằng hình rơm, Mùa gió chướng, Người con đi xa, Dòng sông thơ ấu, Bàn thờ tổ của một cô đào, Tôi thích làm vua, 25 truyện ngắn, Paris - tiếng hát Trịnh Công Sơn, Con mèo của Foujita, Nhà văn về làng...

Kịch bản phim: Cánh đồng hoang, Pho tượng, Cho đến bao giờ, Mùa nước nổi, Dòng sông hát, Câu nói dối đầu tiên, Thời thơ ấu, Giữa dòng, Như một huyền thoại, Con khỉ mồ côi và mới nhất là 30 tập phim truyền hình Khoảnh khắc Võ Văn Kiệt...

Ngoài nhiều giải thưởng văn học và điện ảnh, ông vinh dự được trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt II, năm 2000 cho cụm tác phẩm: Cánh đồng hoang, Mùa gió chướng, Chiếc lược ngà, Đất lửa.

Có thể bạn quan tâm