1/Chiềng Ken hiện lên trong tôi với sức sống mãnh liệt, một vùng đất không chỉ đẹp về cảnh mà còn đậm đà hồn người. Trên những cánh đồng, các mẹ, các chị người Tày đang tất bật chăm lúa xuân, những đôi tay thoăn thoắt gieo mầm sống giữa tiết trời se lạnh. Lên nương đồi, họ tỉa lá quế hoặc trồng rừng mới, tiếng cười nói rộn ràng vang vọng khắp không gian, hòa vào sự yên bình của một vùng quê được mệnh danh là “miền gái đẹp, gạo trắng nước trong” của huyện vùng sâu Văn Bàn.
Anh cán bộ khuyến nông đi cùng tôi kể rằng, Tết Nguyên đán năm nay, người dân Chiềng Ken ăn Tết lớn hơn mọi năm, không chỉ vì ngày xuân mà còn bởi niềm vui lớn lao: Xã vừa hoàn thành đủ các tiêu chí nông thôn mới.
Tôi nhớ lại lần ghé thăm Chiềng Ken cách đây vài năm, khi ấy Chủ tịch UBND xã Vấn Gia Lâm từng trăn trở với tôi bên chén trà nóng. Ông bảo, Chiềng Ken có đến 200 ha ruộng đất màu mỡ, nước non dồi dào, vậy mà người dân vẫn nghèo. Ông đặt câu hỏi day dứt: “Ruộng đồng bát ngát thế này, chỉ độc canh cây lúa thì chỉ đủ lương thực để ăn, chứ làm sao mà khá lên được, huống chi là giàu?”. Đồng đất Chiềng Ken tuy rộng lớn, nhưng lại bị chia cắt bởi vô số suối ngòi xen lẫn khe sâu, manh mún đến mức đi lại vô cùng khó khăn. Đường sá kém đã trở thành “gông cùm” trói chặt đôi chân, đôi tay người Chiềng Ken, khiến họ mãi luẩn quẩn trong đói nghèo.
Rồi chương trình Nông thôn mới xuất hiện như làn gió xuân, thổi dần đi những bế tắc bao năm. Nhà nước hỗ trợ xi-măng, cát sỏi, thiết kế kỹ thuật và hướng dẫn tận tình; người dân thì sẵn sàng hiến đất, góp công sức để mở tuyến, đắp nền, đổ bê-tông mặt đường. Chỉ trong khoảng 4 năm, Chiềng Ken đã cứng hóa hơn 21 km đường giao thông liên thôn, nối liền tất cả các thôn, bản trong xã. Trước đây, dù địa hình Chiềng Ken khá bằng phẳng, ít núi cao chia cắt như nhiều nơi khác ở Văn Bàn, nhưng việc đi lại vẫn gian nan vì những con suối ngòi, khe sâu ngáng đường. Xe cơ giới khó vào, hàng hóa vận chuyển bị hạn chế, sản xuất và giao thương vì thế mà đình trệ. Người dân muốn bán một yến thóc, một tạ lợn hay vài khối gỗ rừng trồng cũng chẳng được giá, thậm chí còn bị ép giá, dẫn đến tâm lý an phận, chỉ làm ăn cầm chừng theo kiểu tự cung tự cấp. Tôi còn nhớ những ngày ấy, khi đi xe máy xuống các thôn Phúng, Thi, Tằng Pậu, Hát Tình, Đồng Vệ - nơi sinh sống của người Xa Phó - đường sá lầy lội, trơn trượt, như một cuộc đánh vật với thiên nhiên.
Nhưng giờ đây, hệ thống đường giao thông mới đã trở thành luồng sinh khí, thổi bùng sức sống cho người Tày, H’Mông, Xa Phó, Giáy ở Chiềng Ken. Đỉnh cao là giai đoạn 2021-2022, khi nhà nước đầu tư vật liệu, người dân góp công sức hoàn thành 9 tuyến đường dài hơn 11 km, bao gồm Tằng Pậu, Thi, Ken 2, Hát Tình, Khuổi Ún, Chiềng 1+2, Ken 3, Bẻ 1, Bẻ 2. Ngày thông đường Tằng Pậu, không khí tưng bừng như ngày hội lớn. Người già, phụ nữ, trẻ nhỏ đổ ra đường, bước đi trên con đường mới to rộng, láng nhựa nhẵn mịn chẳng kém gì quốc lộ ngoài huyện lỵ, ai nấy đều ngỡ như trong mơ. Tiếp đó, Chiềng Ken tiếp tục “tấn công” hoàn thiện các tuyến đường còn lại, dài hơn 10 km, nối Phúng, Bẻ 4 - Dần Thàng, Đồng Vệ… Tổng cộng, người dân đã hiến gần 40 nghìn m2 đất vườn, ruộng lúa, đóng góp hàng nghìn ngày công trị giá hơn 26 tỷ đồng để làm đường cho chính mình. Giờ đây, hệ thống giao thông cứng hóa, rộng rãi đã xóa bỏ cái “vòng kim cô” trói buộc bao năm.
![]() |
Hợp tác xã Nông - Lâm nghiệp - Dược liệu Thế Tuấn với sáu sản phẩm đạt OCOP 3 sao từ cây đại bi và cây tía tô ở Chiềng Ken. |
2/Con đường tốt, đi lại thuận tiện cả bốn mùa đã trở thành “mạch máu” dẫn sự sống đến từng ngõ ngách Chiềng Ken. Cả vùng đất này bừng tỉnh, “thay cây đổi con”, liên kết nhóm liên gia theo sở thích, hợp tác với doanh nghiệp để khai thác tiềm năng đất đai. Đảng ủy xã ra nghị quyết chuyển đổi cây trồng, vật nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa, mở ra một kỷ nguyên mới cho người dân nơi đây. Ruộng đồng Chiềng Ken được xem là “thượng đẳng điền” - đất tốt, nguồn nước dồi dào - nên xã tập trung quy hoạch cánh đồng một giống, áp dụng phương pháp canh tác lúa cải tiến SRI (System of Rice Intensification). Chủ tịch UBND xã Vũ Thanh Nguyên chia sẻ: “Chúng tôi khuyến khích bà con canh tác theo cánh đồng một giống, áp dụng SRI để nâng cao năng suất và chất lượng hạt gạo. Đây là chìa khóa để phát triển nông nghiệp bền vững ở địa phương”. Câu chuyện về SRI mà ông kể khiến tôi không khỏi bất ngờ và thích thú. Phương pháp này bắt nguồn từ Madagascar vào những năm 1980, được Giáo sư Norman Uphoff của Đại học Cornell (Mỹ) tuyên truyền và nhân rộng ra nhiều nước. SRI dựa trên 5 nguyên tắc: Cấy mạ non, cấy một dảnh vuông mắt và nông, rút nước cạn xen kẽ, làm cỏ sục bùn, bón phân theo nhu cầu cây. Lợi ích lớn nhất là “bốn giảm”: Giảm 60-70% lượng giống, 25-30% nước tưới, giảm phân bón và thuốc bảo vệ thực vật, nhưng vẫn bảo đảm năng suất cao và chất lượng vượt trội.
Chúng tôi ra cánh đồng Ken 1, nơi một vài thửa ruộng cấy sớm đã xanh mướt. Dưới nắng xuân dịu dàng, những thân mạ cứng cáp vươn cao trên mặt nước, đón ánh sáng và khí trời, hứa hẹn một mùa vàng bội thu. Anh Đỗ Đình Biên, cán bộ khuyến nông xã, tốt nghiệp Trường đại học Nông - Lâm Thái Nguyên, dù còn trẻ nhưng am hiểu SRI như một chuyên gia thực thụ. Anh bảo: “Hiện nay, nông dân Chiềng Ken cấy đại trà giống lúa Điện Biên. Với SRI, năng suất từ giống lúa truyền thống cao hơn, hạt gạo chứa nhiều sắt và protein hơn các giống lúa lai, giá bán vì thế cũng tốt hơn”. Đến nay, Chiềng Ken có 190 ha áp dụng SRI toàn phần và bán phần, năng suất lúa tăng thêm 15-17 tạ/ha, mang lại thu nhập tăng khoảng 10-12 triệu đồng/ha.
Không chỉ dừng ở lúa, cây ăn quả có múi cũng được người Chiềng Ken đưa vào thay thế ngô, sắn trên các chân ruộng cao và vùng đất khô cằn, sỏi đá. Chị Triệu Thị Thảo ở thôn Bẻ 2, một người phụ nữ lanh lợi, tháo vát, đã quyết tâm trồng cây bưởi đường. Sau gần 6 năm miệt mài “vượt nắng thắng mưa”, vợ chồng chị biến hơn 4 ha đất gò bãi hoang hóa thành trang trại bưởi ngọt, làm mát xanh cả một vùng. Với hàng nghìn cây bưởi sai trĩu quả, mỗi năm chị thu hoạch khoảng 60 vạn quả bưởi đạt chuẩn OCOP 3 sao, mang về khoảng một tỷ đồng. Từ thành công của chị Thảo, bà con Chiềng Ken tích cực chuyển đổi hơn 20 ha đất kém hiệu quả sang trồng bưởi, cam, xoài cát Hòa Lộc. Mầu xanh của cây trái lan rộng, mở ra hướng đa canh, gia tăng giá trị trên đồng đất nơi đây.
Xe bon nhanh trên con đường bê-tông sáng loang loáng trong mưa xuân nhẹ, hai bên là rừng quế xanh ngút ngát. Bí thư chi bộ thôn Bẻ 2 Ngân Ngọc Tăng đón chúng tôi tại đầu nhà sàn, rồi dẫn ra khu rừng quế hơn sáu vạn cây của gia đình, nơi cây mọc tăm tắp, ken dày đến mức nắng không lọt. Đi dưới tán quế thơm ngát, lòng tôi lâng lâng khó tả. Anh Tăng kể, anh là người đầu tiên lặn lội mấy ngày trời xuống Phong Dụ (Văn Yên, Yên Bái) xin giống quế từ bà con người Dao, mang về trăm cây, chăm như con, nhưng chỉ sống được non nửa. Những cây quế “tổ” ấy giờ vươn cao như cổ thụ, đứng nghiêm trang trong vườn nhà. Từ đó, anh học cách ươm giống, nhân lên hàng vạn cây, phủ xanh rừng Bẻ 2. Nhờ những người tiên phong như anh, phong trào trồng quế lan khắp xã. Đảng ủy ra nghị quyết, chính quyền hỗ trợ, đưa cây quế lên đồi, vừa tăng độ che phủ, vừa tạo việc làm và thu nhập bền vững. Đến nay, gần 400 hộ dân sở hữu 486 ha quế, vài năm nữa sẽ mang về hàng chục tỷ đồng. Những “triệu phú quế” như Lương Văn Tha, Lương Văn Thức, Lương Văn Loan, Ngân Văn Tăng, La Văn Toi… không còn hiếm ở các thôn Bẻ 2, Bẻ 4, Ken 3, Đồng Vệ. Điều đáng quý hơn cả là tư duy làm ăn của người dân đã thay đổi, bắt nhịp thị trường, sản xuất theo lợi thế, bán những gì người mua cần - nông sản sạch, chất lượng cao, hợp thị hiếu.
Chiềng Ken còn có cây đại bi (long não xanh), một loại thảo dược hoang dại mọc bên bờ mương, bìa rừng. Các mẹ, các chị người Tày bảo, nhờ tắm nước suối Đao và gội đầu bằng nước cây đại bi mà họ có dáng cao, tóc mượt, da mịn, môi hồng - nét đẹp nổi tiếng của phụ nữ nơi đây. Chàng kỹ sư lâm nghiệp An Văn Tuấn đã nhận ra giá trị của cây này, thành lập Hợp tác xã Nông - Lâm nghiệp - Dược liệu Thế Tuấn năm 2019. Anh đầu tư công nghệ chưng cất tinh dầu từ đại bi và tía tô, vừa khai thác tự nhiên, vừa phát triển vùng trồng, tạo nguồn nguyên liệu ổn định. Sản phẩm tinh dầu đạt chuẩn OCOP 3 sao, không chỉ phục vụ sức khỏe, làm đẹp trong nước mà còn xuất khẩu sang Anh, Pháp, Nhật Bản, đưa tên tuổi Chiềng Ken vươn xa. Mưa xuân lất phất bay, Chủ tịch Vũ Thanh Nguyên bảo đó là dấu hiệu tốt cho mùa màng. Sau những ngày đông giá rét, nắng ấm và mưa nhẹ khiến ruộng, vườn, rừng Chiềng Ken bật màu xanh, trải dài, tiếp nối, sinh sôi, mang lại no ấm và hạnh phúc cho đất và người nơi đây. Xuân đã về, cùng với một Chiềng Ken xanh mãi!