Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh vừa tuyên bác đơn kiện của Coca-Cola Việt Nam đối với Cục Thuế thành phố, đồng thời giữ nguyên toàn bộ quyết định truy thu, xử phạt và tiền chậm nộp với tổng số tiền hơn 821,4 tỷ đồng.
Kết luận này dựa trên kết quả thanh tra giai đoạn 2007-2015, trong đó cơ quan chức năng xác định Coca-Cola Việt Nam đã kê khai thuế không đúng quy định, khiến doanh nghiệp liên tục báo lỗ trong nhiều năm. Sau rà soát, cơ quan thuế phải điều chỉnh giảm lỗ hơn 762 tỷ đồng và truy thu hơn 471 tỷ đồng tiền thuế.
Không phải trường hợp cá biệt
Về phía Coca-Cola Việt Nam, doanh nghiệp cho biết tôn trọng quy trình tố tụng và phán quyết của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đối với các vấn đề liên quan đến thuế. Điều này đồng nghĩa doanh nghiệp phải chấp hành đầy đủ nghĩa vụ nộp ngân sách theo phán quyết.
Tuy nhiên, điều đáng nói, trong suốt quá trình tranh chấp, Coca-Cola nhiều lần khẳng định đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thuế và tuân thủ quy định về giá chuyển nhượng. Trong khi đó, kết luận thanh tra cho thấy vẫn tồn tại một số khoản chi không đáp ứng điều kiện hạch toán, hoặc chưa chứng minh được tính hợp lý, dẫn đến sai lệch trong kê khai. Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân đánh giá quyết định truy thu và xử phạt của cơ quan thuế là có cơ sở pháp lý và đề nghị tòa bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện.
Từ vụ việc, Cục Thuế gửi thông điệp tới cộng đồng doanh nghiệp trong và ngoài nước rằng tuân thủ pháp luật thuế là yêu cầu tối thiểu. Việc liên tục báo lỗ nhưng không thực hiện đúng nghĩa vụ thuế là điều không thể chấp nhận. Theo cơ quan thuế, đây cũng là lời khẳng định rằng mọi doanh nghiệp đầu tư tại Việt Nam đều phải tuân thủ luật pháp và thực hiện nghĩa vụ thuế tương xứng.
Sự việc của Coca-Cola không phải là trường hợp đơn lẻ trong khối doanh nghiệp FDI. Báo cáo của Bộ Tài chính cho thấy số doanh nghiệp FDI báo lỗ, lỗ lũy kế hoặc mất vốn chủ sở hữu tiếp tục tăng mạnh cả về số lượng lẫn giá trị. Điều đáng chú ý là nhiều doanh nghiệp dù báo lỗ liên tục nhiều năm nhưng vẫn mở rộng vốn đầu tư và duy trì hoạt động sản xuất, kinh doanh, tạo ra những dấu hỏi lớn về hiệu quả tài chính và tính minh bạch.
Tính đến cuối năm 2023, Việt Nam có khoảng 28.918 doanh nghiệp FDI, trong đó 16.292 doanh nghiệp báo lỗ, chiếm hơn 56%. Số doanh nghiệp lỗ lũy kế lên tới 18.140, tăng 15%, và số doanh nghiệp lỗ dẫn tới âm vốn chủ sở hữu là 5.091, tăng 15,2%. Riêng tổng mức lỗ trong năm 2023 đạt 217.464 tỷ đồng, tăng 32% so với năm trước. Những con số này cho thấy tình trạng thua lỗ của doanh nghiệp FDI không chỉ kéo dài mà còn có xu hướng gia tăng.
Dữ liệu đồng thời cho thấy một nghịch lý, tổng tài sản của nhóm doanh nghiệp FDI có vốn chi phối đạt hơn 9.957.039 tỷ đồng, tăng 6,8% so với năm trước. Vốn chủ sở hữu và vốn đầu tư của chủ sở hữu đều tăng, nhưng lợi nhuận sau thuế lại giảm gần 16%, kéo theo số nộp ngân sách giảm mạnh.
Nêu quan điểm về thực trạng này, PGS, TS Đinh Trọng Thịnh, chuyên gia kinh tế cho rằng, điểm yếu lớn nhất của Việt Nam hiện nay nằm ở khâu kiểm soát. Cơ quan quản lý vẫn chủ yếu dựa vào báo cáo tự kê khai của doanh nghiệp, trong khi chưa nắm bắt đầy đủ hoạt động sản xuất, kinh doanh thực tế. Lợi dụng kẽ hở ấy, nhiều doanh nghiệp FDI đã thực hiện hành vi chuyển giá.
Theo ông Thịnh, các chiêu thức thường gặp gồm kê khai khống giá vốn hàng nhập khẩu, đẩy cao chi phí nguyên vật liệu, phí bản quyền hay chi phí dịch vụ hành chính, kỹ thuật từ công ty mẹ; hoặc chuyển giá thông qua các khoản vay liên kết với mức lãi suất cao bất thường. Hệ quả là lợi nhuận ghi nhận tại Việt Nam bị “bào mòn” tới mức âm để tránh thuế thu nhập doanh nghiệp, trong khi dòng tiền thực chất vẫn được chuyển về công ty mẹ ở nước ngoài.
Kỷ nguyên dễ dãi đã đi qua
Kỷ nguyên “lỗ giả, lãi thật” của Coca-Cola và nhiều doanh nghiệp FDI khác đang bước vào một chu kỳ mới. Bộ Tài chính cho biết, thời gian qua, ngành thuế đã siết chặt quản lý đối với các doanh nghiệp có giao dịch liên kết, trọng tâm là tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra.
Song song đó, cơ quan thuế định kỳ phân tích và phân loại rủi ro, từ đó lập kế hoạch và triển khai kiểm tra đối với những doanh nghiệp có dấu hiệu chuyển giá cao, từng bước thu hẹp khoảng trống khiến hành vi gian lận có đất tồn tại. Cụ thể, năm 2024, ngành thuế đã thanh tra, kiểm tra 920 doanh nghiệp có giao dịch liên kết, qua đó truy thu, truy hoàn và xử phạt tổng số tiền 1.807 tỷ đồng, đồng thời giảm lỗ 9.143 tỷ đồng. Riêng nhóm doanh nghiệp FDI, cơ quan thuế tiến hành thanh tra 253 đơn vị, kết quả truy thu và xử phạt 998 tỷ đồng, giảm lỗ 4.018 tỷ đồng. Bình quân mỗi cuộc thanh tra giao dịch liên kết mang lại 1,95 tỷ đồng, cao gấp nhiều lần so với mức bình quân của một cuộc thanh tra thông thường (chỉ khoảng 0,3 tỷ đồng).
Cùng với siết chặt chuyển giá, công tác thu hồi nợ thuế cũng được triển khai quyết liệt. Năm 2023, toàn ngành thu được 49.000 tỷ đồng nợ đọng; năm 2024 con số này tăng lên khoảng 63.000 tỷ đồng. Tính đến ngày 30/6/2025, số nợ thuế lũy kế được xử lý đã đạt khoảng 51.000 tỷ đồng, cho thấy kỷ luật tài chính đang được khôi phục mạnh mẽ trên phạm vi toàn hệ thống.
Những kết quả này cho thấy công tác chống chuyển giá không còn mang tính cảnh báo hay thí điểm, mà đang bước vào giai đoạn xử lý thực chất. Quy mô truy thu và giảm lỗ tăng mạnh qua từng năm cho thấy việc siết chặt quản lý đang phát huy hiệu quả, đồng thời báo hiệu một giai đoạn mà doanh nghiệp FDI khó còn có thể dựa vào các cấu trúc giá nội bộ để “xóa” lợi nhuận tại Việt Nam.
Trong bối cảnh công tác chống “lỗ giả, lãi thật” đang được siết chặt và kỷ luật thuế dần được thiết lập lại, Bộ Tài chính cho rằng, việc hoàn thiện chính sách đầu tư là bước đi tiếp theo cần được triển khai song song. Cơ quan này kiến nghị Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo rà soát toàn diện các chính sách ưu đãi, nhằm hướng dòng vốn FDI vào đúng những lĩnh vực Việt Nam cần, thay vì chạy theo quy mô hay số lượng dự án.
Đồng quan điểm, ông Nguyễn Quang Huy, CEO Khoa Tài chính ngân hàng, Trường đại học Nguyễn Trãi cho rằng, chiến lược thu hút FDI trong giai đoạn mới nên tập trung vào ba định hướng chủ chốt.
Theo đó, cần bắt đầu từ việc ưu tiên các dòng vốn mang hàm lượng công nghệ cao như bán dẫn, AI, công nghệ xanh, trung tâm R&D và các ngành kinh tế số. Đây là những lĩnh vực có khả năng tạo ra giá trị gia tăng lớn, giúp Việt Nam chuyển dịch từ vai trò “công xưởng sản xuất” sang “trung tâm giá trị cao”.
Song song với đó, hệ thống ưu đãi đầu tư phải được thiết kế có điều kiện, gắn chặt với yêu cầu về công nghệ, hoạt động R&D, tiêu chuẩn môi trường, chuyển giao kỹ thuật và tuân thủ nghĩa vụ thuế. Nguyên tắc “càng minh bạch càng được hưởng nhiều” sẽ là động lực để nhà đầu tư nghiêm túc tuân thủ và hạn chế các hành vi lách luật.
Một trụ cột quan trọng khác là nâng cao năng lực quản lý theo chuẩn mực quốc tế. Điều này đòi hỏi Việt Nam phải triển khai đầy đủ các quy định chống xói mòn cơ sở thuế (BEPS), kiểm soát chặt phí dịch vụ nội bộ, giới hạn lãi vay liên kết và tăng cường ứng dụng phân tích dữ liệu lớn trong thanh tra. Cách tiếp cận này không chỉ bảo vệ nguồn thu ngân sách mà còn tạo nên môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước.
Nhìn tổng thể, khi kỷ luật thuế được lập lại và chính sách đầu tư hướng vào giá trị thật sẽ trở thành nền tảng để thị trường phát triển lành mạnh và công bằng hơn trong giai đoạn tới.
Chỉ trong nửa đầu năm 2025, cơ quan thuế đã thanh tra 239 doanh nghiệp có giao dịch liên kết. Kết quả truy thu, truy hoàn và xử phạt đạt 1.576,7 tỷ đồng; giảm lỗ 7.374,5 tỷ đồng; giảm khấu trừ 30,4 tỷ đồng và điều chỉnh tăng thu nhập chịu thuế thêm 7.225,3 tỷ đồng.
Riêng hoạt động xác định giá giao dịch liên kết theo nguyên tắc thị trường đã đóng góp 959,2 tỷ đồng tiền truy thu, giảm lỗ 4.738 tỷ đồng và tăng thu nhập chịu thuế 6.773,6 tỷ đồng.