Ngôn ngữ phổ biến của giáo dục bậc cao
Các khóa học bằng tiếng Anh không chỉ thu hút hơn năm triệu sinh viên quốc tế du học, nó còn là lựa chọn của nhiều sinh viên ở nước sở tại thích học bằng tiếng Anh hơn là tiếng mẹ đẻ - nghiên cứu của StudyPortals, một tổ chức đặt ở Hà Lan có dữ liệu thông tin về 100.000 bằng thạc sĩ và cử nhân tại 2.100 trường đại học trên thế giới cho biết. Cô Carmen Neghina ở tổ chức này nói, dự án xem xét nhóm 1.000 trường hàng đầu trong bảng xếp hạng quốc tế và thấy ba phần tư số trường này có ít nhất một trình độ hoặc nhiều hơn dạy hoàn toàn bằng tiếng Anh. Nhóm này cũng bao gồm trường ở các nước nói tiếng Anh như Anh và Mỹ.
Ở lục địa châu Âu, Hà Lan có nhiều khóa học dạy bằng tiếng Anh nhất với 12 trường đại học được xếp hạng trong nhóm cung cấp tổng số 1.000 khóa học. Đức có 54 trường đại học hàng đầu trong xếp hạng này với 835 khóa học. Thụy Điển, Đan Mạch và Tây Ban Nha nối tiếp trong danh sách với hàng trăm khóa học dạy bằng tiếng Anh dành cho sinh viên quốc tế. Đây không chỉ là khuynh hướng ở châu Âu. Trong số 112 trường đại học hàng đầu ở Trung Quốc có 45 trường cung cấp một trình độ hoặc nhiều hơn bằng ngôn ngữ tiếng Anh, có 11 trường ở Nhật và sáu trường ở Thái-lan.
Con số sinh viên du học nước ngoài ngày càng tăng có thể khiến khuynh hướng này đi xa hơn. Hans de Wit, Giám đốc Trung tâm Giáo dục bậc cao quốc tế, Đại học Boston, Mỹ nói rằng, dự đoán vào năm 2025, con số sinh viên quốc tế có thể tăng tới tám triệu, đông nhất là từ Trung Quốc, Ấn Độ, và Hàn Quốc nhưng Nigeria cũng đang bắt kịp rất nhanh. Các nước nói tiếng Anh cùng với Đức và Pháp thu hút phần lớn trong số đó. Nhưng nguy cơ cạnh tranh ngày càng tăng từ những nước khác bao gồm Trung Quốc.
Ở châu Âu, theo Hiệp hội hợp tác học tập, con số khóa học dạy bằng tiếng Anh trong các trường đại học ở các nước không nói tiếng Anh đã tăng 300% trong vòng bảy năm qua. Tập trung cao nhất là ở Đan Mạch, Hà Lan, Thụy Điển trong khi ở Đức, Pháp và Italia có tỷ lệ thấp chỉ vài phần trăm.
Những khóa học này không chỉ thu hút sinh viên quốc tế. Nó cũng được các sinh viên sở tại ưa chuộng, đặc biệt ở trình độ thạc sĩ, những người muốn thành thạo tiếng Anh như các sinh viên quốc tế mà không phải rời quê hương. Theo báo cáo của ACA, khoảng 45% chương trình đại học dạy bằng tiếng Anh ở lục địa châu Âu là học trong nước. Trong đó 1 trong số 20 khóa học là chỉ có các sinh viên nước sở tại tham gia.
Và những hệ lụy trong khoa học
Tiếng Anh không chỉ phổ biến trong các trường đại học hàng đầu thế giới như một ngôn ngữ chính, điều này cũng đúng trong giới nghiên cứu khoa học. Tham gia vào bất cứ một hội nghị có tính chất học thuật nào, những cuộc thảo luận thường diễn ra bằng tiếng Anh. Với bất kỳ ai muốn chia sẻ nghiên cứu của mình, tiếng Anh trở thành phương tiện cho việc học, viết và dạy. Điều đó có thể giúp những người bất đồng ngôn ngữ hiểu và cộng tác với nhau, nhưng các nhà khoa học lo ngại rằng, liệu những nghiên cứu bằng ngôn ngữ khác có bị cho là thứ yếu?
Các giáo sư đại học Đức khẳng định khoa học được hưởng lợi từ việc tiếp cận qua những ngôn ngữ khác nhau. Các nhà nghiên cứu mà ngôn ngữ thứ nhất không phải tiếng Anh cho rằng họ phải chấp nhận các học thuyết và thuật ngữ Anh Mỹ để được công bố nghiên cứu trên các tạp chí khoa học quốc tế chủ chốt. Theo nhà ngôn ngữ Đức Ranier Enrique Hamel, trong năm 1880 có 36% số công bố khoa học sử dụng tiếng Anh, đã tăng lên 64% vào năm 1980. Tới năm 2000 trong các tạp chí được công nhận bởi Báo cáo trích dẫn tạp chí, 96% số bài báo bằng tiếng Anh.
Được công bố trên những tạp chí được công nhận này ảnh hưởng tới uy tín và thứ hạng của đại học, sau đó là ảnh hưởng tới kinh phí, tài trợ và tuyển sinh, nên các trường đại học có động cơ khuyến khích các nhà nghiên cứu sử dụng tiếng Anh và vòng quay tiếp tục như vậy. Khuynh hướng này gia tăng khi con số các khóa học dạy bằng tiếng Anh ở châu Âu và châu Á ngày càng tăng lên. Ở Hà Lan, Trường đại học Maastricht có 55 khóa thạc sĩ bằng tiếng Anh và chỉ tám khóa bằng tiếng Hà Lan. Trường đại học Groningen hiện sử dụng tiếng Anh như ngôn ngữ chủ chốt để giảng dạy.
Ở Đức, một cuộc vận động do các giáo sư đại học khởi xướng gọi là ADAWIS mong muốn giữ gìn tiếng Đức như ngôn ngữ của khoa học. Các giáo sư đại học cho rằng nhiều lĩnh vực khoa học phát triển nhờ sự tiếp cận khác nhau do các nhà khoa học thực hiện sử dụng tiếng mẹ đẻ của họ. Giáo sư Ralph Mocikat, một nhà nghiên cứu miễn dịch phân tử, chủ tịch ADAWIS nói, tư tưởng được hình thành bằng ngôn ngữ, điều này giải thích tại sao ngôn ngữ đóng một vai trò trọng yếu trong sự tiến bộ của khoa học. Các nhà khoa học như Galielo, Newton và Lagrange đã bỏ tiếng Latin là ngôn ngữ hàn lâm vì lợi ích của tiếng mẹ đẻ. Ngôn ngữ thông thường là nguồn tài nguyên chính của khoa học và việc sử dụng một ngôn ngữ đơn nhất sẽ ném khoa học toàn cầu trở lại thời kỳ tăm tối.
Giáo sư Winfried Thielmann, Đại học kỹ thuật Chemnitz lo ngại, các tạp chí quốc tế hiếm khi chấp nhận trích dẫn và tham khảo các văn bản bằng ngôn ngữ khác, mà chủ yếu chấp nhận văn bản sử dụng các học thuyết và thuật ngữ bằng tiếng Anh có nghĩa là có ít động lực cho các nhà nghiên cứu phát triển các ý tưởng thay thế bằng các ngôn ngữ khác. “Theo tôi đây là một trong những lý do các nhà kinh tế châu Âu không có nhiều đóng góp vào việc quản lý những cuộc khủng hoảng tài chính vừa qua”, ông nói.
Có những lo ngại rằng chúng ta bỏ qua những kiến thức khoa học bởi các nhà nghiên cứu không sử dụng tiếng Anh hiếm khi được biết tiếng bên ngoài quốc gia của họ. Dịch văn bản học thuật chất lượng tốt đắt đỏ và những tạp chí tiếng Anh nói chung sẽ không công bố một bài báo đã in bằng ngôn ngữ khác. Có 6.000 tạp chí khoa học ở Brazil, hầu hết bằng tiếng Bồ Đào Nha và chỉ một số được công nhận bởi bảng kê tạp chí quốc tế. Hầu hết những nghiên cứu này sẽ không có ảnh hưởng bên ngoài Brazil. Chính vì vậy một số nhà khoa học gợi ý các tạp chí khoa học có thể đa ngôn ngữ và xuất bản phần tóm tắt của mỗi bài báo bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau. Chẳng hạn như tạp chí Nature cung cấp thông tin về ấn phẩm mới bằng tiếng Nhật và Ảrập bên cạnh tiếng Anh.
Một số trường đại học cũng xúc tiến sự đa dạng ngôn ngữ bằng cách cung cấp những khóa học đa ngôn ngữ. Khóa thạc sĩ về văn hóa kinh điển châu Âu ở một số trường đại học ở châu Âu yêu cầu sinh viên tham dự ít nhất hai trường đại học nơi sử dụng những ngôn ngữ khác nhau. Cũng có lời kêu gọi đơn giản hóa tiếng Anh trong các bài báo, sách hay hội nghị, với những khái niệm khung sử dụng những thí dụ cụ thể hơn là ẩn dụ. Xem tiếng Anh như là một ngôn ngữ làm cầu nối, dự án Corpus được phát triển bởi những nhà nghiên cứu ở Đại học Helsinki (Phần Lan) lên danh sách một triệu từ «học thuật» tiếng Anh để hướng dẫn các nhà nghiên cứu. Tuy vậy giới khoa học cũng công nhận rằng khi tiếng Anh trở thành phổ quát, thế hệ kế tiếp cũng buộc phải giỏi tiếng Anh hơn.
Với bất kỳ ai muốn chia sẻ nghiên cứu của mình, tiếng Anh trở thành phương tiện cho việc học, viết và dạy. |