Tháo gỡ “điểm nghẽn” cho ngành logistics

Logistics được xác định là một ngành dịch vụ quan trọng, đóng vai trò hỗ trợ, kết nối và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy đã có những bước phát triển trong thời gian qua, nhưng nhiều nhận định cho rằng ngành logistics vẫn chưa phát triển xứng với tiềm năng.
Bốc dỡ hàng hóa tại Tổng công ty Tân Cảng Sài Gòn. Ảnh: NGUYỄN NAM
Bốc dỡ hàng hóa tại Tổng công ty Tân Cảng Sài Gòn. Ảnh: NGUYỄN NAM

Điểm nghẽn lớn nhất được các chuyên gia chỉ ra là chi phí dịch vụ logistics còn khá cao. Đây là một trong những hạn chế lớn. Bên cạnh đó, chưa hình thành được mạng lưới các doanh nghiệp logistics Việt Nam có quy mô lớn, có năng lực dẫn dắt thị trường, thúc đẩy ngành logistics phát triển...

Cơ hội trong khó khăn

Thực tế cho thấy, quá trình tham gia, thực thi các hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và các đối tác đã mang lại những cơ hội về thu hút đầu tư, gia tăng nhu cầu vận chuyển. Song, quá trình này cũng đang bộc lộ những thách thức mà ngành logistics Việt Nam phải đối mặt, đó là nâng cao năng lực cạnh tranh, tận dụng tốt hơn những cơ hội cũng như khả năng thích ứng.

Các doanh nghiệp logistics Việt Nam bị cạnh tranh gay gắt bởi các doanh nghiệp logistics của EU, vốn rất mạnh và chiếm thị phần đáng kể trên thị trường logistics thế giới. Trong khi đó, các doanh nghiệp Việt Nam phần lớn ở quy mô nhỏ và vừa, tính chuyên nghiệp chưa cao, cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng được thực tiễn phát triển dẫn đến chi phí dịch vụ cao hơn.

Bên cạnh đó, hệ thống logistics và vận chuyển phải bảo đảm các yêu cầu khắt khe về tiêu chuẩn và quy trình kiểm soát quốc tế của EU. Đối với hàng xuất khẩu từ Việt Nam, dù là các mặt hàng truyền thống hay các mặt hàng mới đều cần có sự bảo đảm tốt hơn về chất lượng bảo quản, vận chuyển, đặc biệt là nhóm hàng nông sản, mây tre đan, đồ gỗ là những mặt hàng dễ bị thay đổi chất lượng do điều kiện nhiệt độ, môi trường.

Số liệu từ Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ logistics Việt Nam (VLA) cho thấy, chi phí logistics của Việt Nam vẫn còn cao, hiện chiếm mức 16,8% GDP, so mức bình quân thế giới là 10,7%. Tính trong ASEAN, chi phí logistics Việt Nam cao hơn các nước Singapore, Malaysia và Thailand. Việc chi phí logistics cao khiến khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam giảm. Thêm một hạn chế là các doanh nghiệp logistics Việt Nam có số lượng lớn, nhưng thị phần thị trường lại rơi vào các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

Cụ thể, thị trường logistics có sự tham gia của hơn 5.000 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics 3PL (cung cấp dịch vụ logistics bên thứ ba, hay logistics theo hợp đồng), trong đó chiếm 89% là doanh nghiệp trong nước, 10% là doanh nghiệp liên doanh và 1% là doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài cung cấp dịch vụ logistics xuyên quốc gia. Áp đảo về số lượng doanh nghiệp nhưng các doanh nghiệp Việt Nam chỉ chiếm khoảng 30% thị phần, còn lại thuộc về các doanh nghiệp nước ngoài.

Hiện nay, chỉ có Tổng công ty Tân Cảng Sài Gòn, Công ty CP Transimex, Công ty CP Gemadept... là doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics lớn, cung cấp dịch vụ 3PL, đủ sức cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam và có chi nhánh hoặc đại diện ở thị trường ngoài nước.

Kiến tạo hệ sinh thái theo chuỗi

Theo bảng xếp hạng của Agility 2022, thị trường logistics Việt Nam được xếp hạng 11 trong nhóm 50 thị trường logistics mới nổi toàn cầu. Tỷ lệ tăng trưởng kép hằng năm (CAGR) giai đoạn 2022 - 2027 của thị trường logistics Việt Nam được dự báo đạt mức 5,5%. Việt Nam hiện là quốc gia đứng đầu trong các nước ASEAN về số lượng DMM kinh doanh dịch vụ logistics được Cơ quan Quản lý hoạt động hàng hải của Mỹ (FMC) cấp phép. Số lượng và chất lượng dịch vụ logistics được nâng cao, qua đó giúp xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ chiếm tỷ lệ ngày càng cao so với quy mô GDP, tăng từ 72,9% năm 2015 lên 93,3% năm 2021.

Theo ông Trần Thanh Hải, Phó Cục trưởng Xuất nhập khẩu (Bộ Công thương), những năm qua, ngành logistics Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể với tốc độ bình quân từ 14-16%/năm, quy mô 40-42 tỷ USD/năm. Số lượng các doanh nghiệp và chất lượng kinh doanh dịch vụ logistics ngày càng tăng, đóng góp không nhỏ đưa kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa năm 2022 đạt mức 732,5 tỷ USD, tăng 9,5% so với năm 2021.

Tuy nhiên, khi nhìn sâu vào rào cản trong phát triển logistics Việt Nam, ông Trần Thanh Hải chỉ ra những điểm yếu của logistics khi chi phí còn cao; thiếu sự liên kết giữa các doanh nghiệp dịch vụ logistics và với các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh, xuất nhập khẩu; quy mô và tiềm lực tài chính của các doanh nghiệp logistics Việt Nam còn yếu…

Từ thực tế, ông Trương Tấn Lộc, Giám đốc Marketing Tổng công ty Tân Cảng Sài Gòn (SNP) chỉ ra, các doanh nghiệp logistics cần có sự chung tay, đồng hành cùng phát triển, tăng cường liên kết gia tăng tính cạnh tranh. “DN logistics cần thay đổi tư duy và cách làm cũ bằng sự đồng hành và hợp tác để giảm các rủi ro. Việc kết nối các doanh nghiệp liên vùng sẽ tạo ra mạng lưới kết nối hoàn chỉnh, đồng bộ và thông suốt. Đặc biệt, nếu xây dựng được hệ thống dữ liệu chung cho hệ thống cảng biển Việt Nam, kết nối với các cảng trong khu vực và trên thế giới sẽ góp phần tăng hiệu suất khai thác, tăng sức cạnh tranh của logistics Việt Nam”, ông Lộc nói.

Với tốc độ bình quân từ 14-16%/năm với quy mô 40-42 tỷ USD/năm, để kiến tạo hệ sinh thái logistics bền vững cho thương mại điện tử, ông Nguyễn Triều Quang, Giám đốc Khối Vận hành miền bắc - Lazada Logistics Việt Nam cho rằng, doanh nghiệp có thể tập trung đầu tư vào ba điểm chính, đó là nâng cao trải nghiệm giao nhận hàng hóa từ mọi điểm chạm; ứng dụng công nghệ và chuẩn hóa quy trình để tối ưu hiệu suất vận hành; phát triển logistics xanh, bền vững.