Không phải ngẫu nhiên mà những cổ tích hoang đường lãng mạn nhất của người Việt, khi bắt đầu kể thường mở rằng “ngày xửa ngày xưa...”. Chỉ có điều, ngày xưa ở đây là những ngày chưa xa. Là lúc Hà Nội còn thưa người, hiếm hoi ô-tô, đã có lác đác xe máy và thanh nhã dịu dàng ngập tràn xe đạp. Ở mọi góc phố, tuyệt hiếm những khu chung cư thô lỗ vô cảm cao tầng. Thảng nếu có, như khu Kim Liên, Trung Tự chẳng hạn, thì nó cũng chỉ cao vừa đủ để cho một chàng trai đang yêu đứng dưới lòng đường, vọng lên những lời tình tứ cho một cô bé dối cha dối mẹ đang giả vờ tưới hoa ở tầng thượng. Thời ấy, những người chân thành yêu nhau thường bẽn lẽn, Tết nhất chính là một dịp bằng vàng để cho bọn họ liều lĩnh hẹn hò. Tất nhiên, hầu hết những cuộc hẹn là loay hoay khổ nhọc, bởi chuẩn bị Tết với từng nhà, không cứ quan hay dân, luôn là sự lo toan công phu tuyệt vời vất vả.
Mà có gì đâu, đã không biết bao nhiêu người kể rồi, toàn là những thứ giờ đây đang tràn ngập ở những siêu thị rẻ tiền. Hộp bánh kẹo Hải Hà bọc giấy bóng mờ thủng lỗ chỗ là quá sang. Chai rượu hoa quả hoặc mơ hoặc chanh, nếu lại là chai “lúa mới” thì sang quá. Thượng thặng là gói thuốc lá Điện Biên hay Tam Đảo bao bạc. Còn đâu, trong túi ni-lông hàng Tết chỉ giản dị đựng bóng, đựng miến, đựng một ít nấm hương, mộc nhĩ thỉnh thoảng có mùi hôi mốc. Mọi người đều phải dậy sớm xếp hàng, tất cả mọi thứ đều phải mua bằng “bìa”, một loại tem phiếu đặc trưng mà bất hạnh thay đã thất truyền. Bởi nó rẻ, nó đem lại một sự dư dật bình quân theo đúng nghĩa tử tế đến từng người lao động đã cả năm quần quật tần tảo vừa chiến đấu vừa sản xuất. Vì thế, những thiếu nữ chưa chồng ở dịp Tết của thời đấy bận lắm, không nhàn cư vi bất thiện như đám con gái tóc xanh tóc đỏ của Tết hôm nay. Biết người yêu đang ngong ngóng thập thò chờ ở cột điện chỗ ngã tư đầu phố với lời hẹn là hai đứa sẽ đi mua hoa, nhưng phải rửa cho xong rổ lá dong để gói bánh chưng đã. Nhà có túng thì cũng phải gói lấy vài đôi bánh, rồi đem ra tổ phục vụ tiểu khu (một loại hình “căng-tin” chỉ tồn tại trong thời bao cấp) nhờ luộc thuê với giá rẻ giật mình. “Mẹ ơi, xong hết rồi, con đi mua luôn cành đào nhé”. Bà mẹ nhìn cái vẻ vừa hấp tấp vừa kỹ càng trang điểm của con gái thì thừa biết, có một thời chính bà cũng vậy, mắng yêu: “Bố cô, đi chợ hoa thì cứ mua hoa, nhớ là về sớm. Còn mua đào thì cô không đến lượt”. Thiếu nữ đang lần đầu yêu cười trừ nhớ ra, mua đào là đặc quyền của những ông bố. Bởi đám cao bồi già thị dân, luôn mặc định việc sửa soạn bàn thờ tổ tiên và mua cành đào chơi Tết là nghi lễ thiêng liêng. Tất tật những sự vụ khác kiểu như cỗ bàn, lau dọn nhà cửa... là chuyện lụn vụn của đám đàn bà. Thường thì họ rủ thêm một hay hai tay bạn thân, đa phần là những trung niên khó đoán tuổi, cho dù tóc đã bạc tới sáu, bảy phần. Bọn họ thong thả mặc cái “gi-lê” len ra ngoài sơ-mi, khoác áo vét vào, đội mũ phớt vào, có tay sành điệu cầm cả “can”, mồm ngậm “píp”. Nhìn những ông bố cao bồi có tuổi kiêu bạc, thanh thản khệnh khạng đi ngắm hoa chọn đào trong chiều mưa phùn cuối Chạp giăng mịn rêu phong phố cổ mới thấy Hà Nội tinh tế đẹp đến nao lòng.
Thế nhưng đẹp nhất vẫn là những đôi trẻ đang yêu. Tết ở Hà Nội hầu như năm nào cũng rét ngọt cho nên nàng mặc một cái “măng-tô” dạ mỏng (áo blouson nhập ngoại hồi ấy hiếm vô cùng), chắc là của chị đi lấy chồng để lại. Cổ hơi sờn, gấu hơi sờn nhưng nó được “mạng” khéo tới mức mà đám đàn bà thời nay tuy ngón tay có dẻo nhờ miệt mài bấm smartphone cũng không thể làm nổi. Lưng áo có một miếng vá nhỏ bằng đồng xu, do bị bọn trẻ con hôm sát Tết nhỡ tay ném pháo, thì phải là người tinh mắt lắm mới có thể nhìn ra. Để tìm được miếng vá cùng mầu, nàng đã phải lục tung cả cửa hàng may quần áo quen trong ngõ nhỏ phố Bà Triệu. Suốt sáng chờ giao thừa, nàng vừa chầm chậm vá vừa nức nở khóc thầm. Trời cao không phụ gái thảo, miếng vá đấy đúng là một kiệt tác của “handmade”. Sung sướng quá, suýt nữa rét thế này mà nàng định ra chỗ hẹn với phong cách “thời trang phang thời tiết” bằng phong phanh cái áo len tự đan “cốt ăng-lê” mầu tím sẫm. Thực ra với chàng, cái áo len cổ lọ ấy mới thập phần quyến rũ. Nó đoan trang “xếch xi”, nó nồng nàn kín đáo ôm trọn cái cổ cao vút trắng ngần của nàng. Lạy Chúa, sao mà hồi ấy ăn uống đói khát như thế mà các thiếu nữ lại có nước da trắng hồng đến thế. Nó khác hẳn ngày hôm nay, các quý bà quý cô bôi đầy các loại mỹ phẩm lừng danh mà mầu da vẫn nhờ nhờ như chính đức hạnh của họ. Chàng chờ lâu rồi, cứ nhìn những mẩu thuốc cuộn Lạng Sơn hôi mù la liệt dưới chân thì biết. Phố xá đã phơn phớt tím lên đèn, hai đứa âu yếm đèo nhau bằng xe đạp. Nếu sang là Mi-pha”, là “Phượng Hoàng”, bình bình hơn là “Thống Nhất”. Tết có khác, chàng diện áo khoác ka-ki, tất nhiên cũng là của bố, đôi khi là của ông nội. Chân đi đôi giày giả da, lúc nãy chờ đợi để đỡ sốt ruột, chàng có âm thầm nhổ nước bọt lau bóng nó lại. Rồi giống như bao đôi trẻ đang lâng lâng hạnh phúc trôi trên những phố cổ, nàng khẽ tựa đầu vào lưng chàng. Tóc của nàng đằm thắm mùi lá hương nhu, mùi của lá mùi già, mùi của thanh sạch Tết. Chàng hít hà ngây ngất, lạc tay ngoắc vào ghi đông của một cặp đang yêu khác làm bốn đứa cùng ngã lăn quay. Trong khi hai chàng trẻ hơi hơi gầm gừ nhìn nhau thì cả hai cô gái cùng mềm mại can ngăn. Đàn bà của thời không có facebook thường ôn nhu nồng nàn nữ tính. Cũng có thể mọi sự hồi ấy đều quá vất vả nên mọi người luôn biết thương nhau. Chàng này lắp bắp xin lỗi, còn chàng kia dễ dàng bỏ qua. Không giống như ngày nay, mới mùng hai Tết đầu năm, nhỡ có qua quýt tai nạn thì ai nấy đều phừng phừng văng tục nhận đúng. Sau một hồi xỉ vả nhau, thì cay cú rút iPhone 6S gọi người thân đến đánh chửi hội đồng. Chao ôi, nhớ sao cái Tết của một thời có không biết bao nhiêu là tử tế.
Tết ở ngày xưa hoang đường đẹp như cổ tích. Nó long lanh lấp lánh như một giấc mơ có thật. Và nhờ những giấc mơ tuyệt vời lãng mạn nửa thực nửa hư đó, mà Hà Nội hôm nay vẫn nguyên vẹn nghìn năm là Hà Nội.