Sóng vẫn vỗ trên bờ

Khi đã ở tuổi đứng bóng, ông Lam Dân chọn cách sống ẩn dật, ở tận cùng cái ngách nhỏ cuối chợ tạm phía sông Kim Ngưu. Cuộc đời một cựu thủy thủ chỉ mong được bình lặng hơn khi sống trên cạn. Nhiều năm vợ ốm, ông Dân đã nhoài người ra với biển xanh mà nghĩ: “Chẳng lẽ mình bỏ đứa con duy nhất để ra biển, đợi chết”. Thương con nên ông nán lại. Lênh đênh tàu viễn dương nhiều năm, cả đời ông dành dụm được ít tiền mua miếng đất trong ngách hẹp cốt sống nốt những tháng ngày chiều muộn trên đất liền. Chỉ mong được yên hàn hơn sau sóng cả gió lớn thời trai trẻ.

Minh họa: DUY ANH
Minh họa: DUY ANH

Nhưng gió giông vẫn tràn qua mặt ông, vì lý do đơn giản, người vợ mắc tai biến, liệt nửa thân người bên trái. Bà Vinh vợ ông, không đi lại được nhưng tai ác thay lại nói suốt ngày. “Dân”, “Lam Dân đâu rồi”…, luôn khiến ông hốt hoảng mỗi khi gà gật ở cầu thang, hay lúc gục bên bàn ăn phòng bếp. Rồi khi bà không réo thất thanh tên Dân, ông lại thiếp đi, và biết là sẽ ngày càng tệ cho chính mình.

Nửa năm rồi bà Vinh không đứng dậy tập đi, mọi thứ sinh hoạt, đều nhờ vào hai người đàn ông trong nhà, con trai và chồng. Còn một tay phải vẫn cử động được, hằng ngày bà vẫn dùng tay phải tự nâng tay trái và tập leo lên xe lăn một mình, có khi ngã tím cả mặt vẫn nghiến răng chịu. Rồi lấy dầu con hổ xoa, day huyệt, để chồng không nhìn thấy sẽ trách mắng, phiền lòng cho cả hai. Bà đã từng cố gắng mà không xong. Thứ bệnh già khó chữa, nên tính nết càng ngày càng tinh quái, đổi thay từng ngày, từng giờ.

Năm ông ba chín tuổi, ông mới gặp bà Vinh ở một đám cưới do người bạn giới thiệu. Ông lấy bà Vinh và có một mụn con trai. Nó cũng đã sang tuổi ba mươi sáu mà chưa chịu lấy vợ. Có lần giục con lại nghe con nói mỗi câu: “Con rất thương bố, bố ạ”. Nó đã từng có bạn gái, từng yêu nhau, ngủ với nhau chán rồi lại bỏ. Nó hay im lặng quan sát gia đình nhỏ này, cuộc hôn nhân của chính bố mẹ. Chỉ vì một tờ giấy đăng ký kết hôn ở phường, hay quận huyện, mà nó ràng buộc con người ta tới chỗ bi thảm như bố từng phải chịu đựng mẹ. Và nó, sau chăm sóc mẹ, để ý từng ly từng tí, tận tụy với đấng sinh thành, và còn nguyên một nỗi sợ. Sợ mẹ nói nhiều, nói như xóc óc bên tai. Có lần nghe xong muốn rụng rời chân tay. Có khi uất ức quá còn nghĩ, thế này không muốn sống nữa rồi. Sống cũng bằng chết, một cách chết mà chưa được chôn mà thôi. Đứa con trai duy nhất đã rất mâu thuẫn với mình, vừa thương mẹ và vừa ghét mẹ. Nó cứ yêu và chia tay bạn gái trong im lặng của thứ tro tàn rất lâu nguội. Không cần thổi lên cũng đủ bỏng người. Nó bỗng sợ đàn bà, có thể suy từ mẹ mà ra.

Một lần, cậu con trai quá thương bố, nó nghĩ ra cách đi chợ, mua gói nem hải sản về rán, kiếm chai Vodka Nga rồi cố chuốc cho bố uống say để dễ ngủ. Nhưng dốc hết chai rượu, thì nó say trước, nằm kềnh ra đất, líu lưỡi kêu thương bố lắm mà không thể nói ra. Nó chưa nghĩ tới điều này, bố mình từng là thủy thủ, chẳng dễ gì say sóng và cũng chẳng dễ gì say rượu. Ông bố dìu con trai lên giường, và tự lau nước mắt cho mình. Sau đó ông pha nước ấm vào chiếc khăn rồi lau mặt cho con. Phút giây dìu con khiến lòng ông chùng xuống.

Cũng nhiều lần, đứa con trai đi làm về sớm, nó nghe thấy mẹ gằn giọng, dằn hắt, mạt sát bố, toàn những chuyện xửa xưa, xa lắc. Thời thanh xuân của bố, ai chẳng có lấy một mối tình, có người từng trải hai ba cuộc tình mới đi đến hôn nhân. Cái ngày mẹ ở nhà nhàn rỗi, đọc trộm những lá thư tình của bố, ghen lồng lên vì những dòng chữ mực tím kia: “Mực tím là thủy chung chứ gì, sáng đi chợ các người vẫn hẹn nhau đi ăn sáng. Ăn phở ngon chứ anh Dân?”. Mới đầu ông Dân định thanh minh là đi mua miếng phổi cho con Ky (con chó nuôi trông nhà) bởi thấy đến bữa nó chán ăn, nó cũng đang khặc khừ như tôi đây. Nhưng chán nản ông lại im, ra cầu thang cuối ngồi thừ ra đối thoại một mình: “Tại sao bà lại bảo tôi đi với bà Thìn kia chứ, bà ấy có sống ở Hà Nội đâu, bà ấy đang sống ở bên Mỹ, và trời ơi, người đã thành tro bụi một tháng nay rồi”. Ông chua xót thốt lên “tro bụi cả rồi”. Lại tiếng vợ ông vẳng lên từ phía giường nơi đầu nhà: “Thế còn bà Mùi Thị ở chợ Gạo thì sao?”. Ông nói: “ Bà nói gì lạ thế, bà Mùi Thị là bạn của bà, bồ bịch với ai, tôi không rõ, với tôi dính dáng gì?”. “Thì bà ta vẫn gọi điện buôn với ông dưới tầng một là gì?”. “Là bà Mùi Thị ấy gửi một hộp trầm cho bà, dặn tôi đốt lên lúc chiều muộn để cho không khí trong nhà có người ốm lâu ngày nó sạch khí, bà dặn dò đốt một viên trên cái đĩa gốm, để xa tay bà ra không sợ bỏng”. “Ái dà, bà ta sợ tôi bỏng hay sợ tay ông bỏng đây. Nắm tay nhau có sướng không”. “Sướng. Được chưa?”. Ông quát lên.

Cách đây một tháng bà năn nỉ giục ông, giúp bà một việc, nhớ đi xe ôm, đi thăm bà Minh Mẫn bạn tôi, nghe nói bà ấy ung thư phổi và gan giai đoạn cuối, nghe nói mổ lần thứ ba, di căn gan. Vừa đến nơi, ông đưa hộp sữa thăm bạn của vợ, vừa nhìn thấy bà Minh Mẫn cười tít, ông không thể tin vào lời của vợ, bà bạn vợ đây đang thao thao về dự án dịch sách này nọ, khảo cứu này nọ. Ông chẳng thấy bệnh nhân đâu chỉ thấy bệnh nhân lại chính là ông đây. Ông vội để túi quà và hộp sữa trên bàn, rồi bỏ về như chạy. Tới nhà nghe vợ hỏi, ông đáp buồn buồn: “Bà Minh Mẫn nom khá, đi lại được trong nhà, ra vào toa lét vô tư, tối tối lên “phây”, đưa ảnh từ năm 18 tuổi ra khoe. Xinh. Tươi…”. Không ngờ ông Lam Dân nói ra một tràng. Bà Vinh nằm nghe một cách ngơ ngác, ngạc nhiên chưa, thế mà mấy đứa cùng lớp thông báo với bà: “Minh Mẫn sắp chết rồi”, toàn loan những tin vịt , toàn “nừa” nhau.

Ông lắc đầu nhìn vợ, gương mặt vợ vốn choắt lại càng choắt. Ông không hình dung nổi, cô ca sĩ hạng trung bình của đoàn ca múa quân đội ngày nào lại rơi xuống trạng huống hài hước, bi đát này. Nằm một chỗ mà nghĩ ra rất nhiều chuyện vừa buồn cười, vừa bệnh hoạn.

Loay hoay trong không gian chật hẹp của mình và vợ, có lúc ông định đưa bà Vinh ra biển, chỉ mong có sóng to cho bà Vinh nói hết cỡ, thả sức, để gió cuốn đi những lời độc địa của bà. Và, có thể ông sẽ để thuyền chìm cùng với bà. Lúc đấy, nếu còn sức ông sẽ bơi cùng với bà xem sao, rồi thì ai ai cuối cũng chẳng chết, đằng nào cùng chết. Nhưng chết cùng nhau, sang đến thế giới bên kia vẫn ở cùng nhau, nghe bà vợ nói tiếp thì kinh lắm nhỉ. Chả lẽ lại tiếp tục nghe bà vợ nói ở kiếp khác nữa sao? Ông đành xua đuổi cách chết cùng nhau khi đi biển chìm xuồng xuống. Thôi quay thuyền về, đành nhẫn nhịn mà sống qua ngày với ước muốn đơn giản, là bà vợ tai ác kia sớm im miệng đi. Con trai từng khuyên ông nên về quê nghỉ ít ngày: “Con sẽ thuê người giúp việc trong thời gian bố về quê”.

Nhưng rồi khăn gói định bụng về quê thì bà vợ lại sốt cao. Sốt li bì. Lại có những ngày nhà cửa im vắng đến nghe thấy cả dấu chân mèo chạy trên hành lang. Ông lại tự an ủi mình. Thôi coi như kiếp này, tôi nợ bà một chặng dài bốn mươi năm, kéo thêm ít năm nữa là xong. Nhưng mỗi lần nghe bà đối thoại với những đêm sáng trăng, ông bỏ xuống nhà tầng một mà vẫn nghe thấy cái giọng kim ráo hoảnh chẳng ngân rung như ngày mới gặp. Bà là người tỏ tình với ông trước, bà nói: “Em nhìn thấy anh và em đã biết mình tìm thấy nửa trái tim của mình rồi. Đúng anh đây, em không thể xa anh được”. Và bà không rời ông nửa bước khi ông từ mênh mông biển sóng trở về thành phố.

Ngày nào cũng như ngày nào, bà lôi toàn những chuyện tình của ông ra kể lể. Thế còn bà, bà cũng có hẳn một bị thư tình của lính khi còn ở đoàn văn công đấy thôi. Nào tôi có thắc mắc gì đâu. Lần này cáu quá. Điên tiết quá. Ông hất cái cốc vỡ choang. Mặc cho giời đất đi đến đâu thì đi. Lần tức nước tràn bờ ấy bà Vinh có vẻ sợ và yên ắng được hai ngày, ngày thứ ba lại bắt đầu. Ông Dân dọa bỏ nhà đi. Đứa con trai càng im lặng hơn. Ngôi nhà ba tầng càng như ảm đạm như có ba cái bóng đi lại. Tấn bi kịch của người đàn bà nằm một chỗ nói nhiều, nói dai và bóng hai người đàn ông đi lại.

Rồi đến một ngày, ông tìm thấy cả đống giấy toàn thư tình, của cả hai vợ chồng. Ông ngồi lặng.