Từ những cuộc trao truyền nhạc cụ dân tộc Mạ

Đồng bào dân tộc Mạ có hệ thống các loại nhạc cụ hết sức độc đáo, bao gồm bộ gõ, bộ dây và bộ hơi; trong đó có một số nhạc cụ chính như: đàn đá, cồng, chiêng, trống, khèn bầu sáu ống, sáo bầu ba lỗ, kèn môi, khèn sừng trâu, đàn ống tre… Ngoài ra, còn có một số nhạc cụ khác được chế tác từ chất liệu thiên nhiên theo sự sáng tạo ngẫu hứng của một số nghệ nhân.
Nghệ nhân K’Trời dạy các cháu học sinh chơi cồng chiêng.
Nghệ nhân K’Trời dạy các cháu học sinh chơi cồng chiêng.

Từ những hiểu biết chung đó, chúng tôi đã đến với cộng đồng cư dân Mạ lâu đời giữa núi rừng Lộc Bắc (Bảo Lâm, Lâm Đồng). Được tận mắt nhìn thấy những loại nhạc cụ cổ truyền, được đắm mình trong không gian văn hóa cồng chiêng, được thưởng thức tiếng kèn, tiếng đàn, chúng tôi càng nhận thức sâu sắc hơn về trách nhiệm bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số địa phương. Cùng với các thầy, cô giáo và học sinh Trường THCS và THPT Lộc Bắc, chúng tôi đã có một cuộc trải nghiệm thú vị và chứng kiến những cuộc trao truyền nghệ thuật truyền thống đầy ý nghĩa.

Để bắt đầu cho hành trình ấy, chúng tôi đã tiếp cận các nghệ nhân dân gian. Tại thôn 4, xã Lộc Bắc, nhóm đã tìm gặp ông K’Pía, một nghệ nhân. Ông K’Pía đã giới thiệu với nhóm chiếc kèn bầu và cây sáo bre tự tay ông làm. Chỉ là một trái bầu khô, mấy ống tre nhỏ, sáp ong đất, những vật liệu hết sức bình dị, quen thuộc có thể tìm thấy trong các gia đình nhưng khi được chế tác thành nhạc cụ thì đã trở thành vật thiêng bởi nó kết tinh trong đó những tinh hoa văn hóa tộc người. Chúng tôi đã nghe nghệ nhân K’Pía nói say sưa về âm nhạc mà bao đời qua tổ tiên ông truyền lại, về các loại nhạc cụ truyền thống người Mạ và mê mải lắng nghe âm thanh của kèn bầu, của sáo. Những giai điệu quen thuộc, gần gũi trong không gian núi rừng như kéo người thưởng thức về với mênh mông đại ngàn, về với bản thể, hòa mình cùng thiên nhiên sâu thẳm, phong nhiêu. Cuộc gặp gỡ nghệ nhân K’Trời ở thôn 2, xã Lộc Bảo cũng hết sức thú vị. Nghệ nhân K’Trời đã vui vẻ bày ra tất cả những nhạc cụ truyền thống mà gia đình ông có. Nào là bộ chiêng droòng, nào là đàn tre, kèn môi, kèn bầu…

Tiếp xúc với các nghệ nhân, chúng tôi nghĩ, ở vùng đồng bào người Mạ bây giờ, còn có bao nhiêu người như ông K’Trời, ông K’Pía - những nghệ nhân còn có ý thức chắt chiu, gìn giữ những giá trị văn hóa mà ông cha từ ngàn xưa đã trao gửi lại. Trong hành trình đi tìm những báu vật đang dần bị lãng quên, gặp được những nghệ nhân hiếm hoi thật là một điều may mắn. Trong nỗi lo lắng, chúng tôi nghĩ, nếu không kịp tiếp lửa và truyền dạy cho thế hệ trẻ, liệu mai này trong vùng đồng bào Mạ, những nhạc cụ và âm nhạc truyền thống có còn cơ hội hiện hữu và lan tỏa những giá trị văn hóa tuyệt vời như thế. Chúng tôi nhận thấy, các nhạc cụ dân tộc Mạ hiện nay còn lại không nhiều. Bên cạnh cồng chiêng thì chỉ còn đàn tre, kèn bầu và đàn môi. Đàn đá và kèn t’diếp nổi tiếng ngày xưa thì nay không còn được tìm thấy. Số người còn biết chế tác và sử dụng nhạc cụ cũng còn rất ít.

***

Rất vui, sau khi tiếp xúc, các nghệ nhân đã hết sức nhiệt tình hướng dẫn các em học sinh cách làm đàn tre, kèn bầu và hướng dẫn các em sử dụng, ghi lại cách làm loại nhạc cụ này với mong muốn lưu lại để làm "vốn liếng". Sản phẩm khi hoàn thiện đã được đưa vào phòng âm nhạc của nhà trường để trưng bày và giới thiệu đến đông đảo học sinh. Bên cạnh đó, nhóm cũng ký âm các bản nhạc dân gian được thể hiện trên các nhạc cụ, nhằm phục vụ biểu diễn và phổ biến thuận lợi. Với mục đích chia sẻ, lan tỏa văn hóa Mạ, âm nhạc dân gian Mạ ra cộng đồng, một cách làm khác là các thầy, cô giáo và học sinh đã tiến hành lập fanpage "Âm sắc người Mạ" để kết nối cộng đồng. Đặc biệt, thầy và trò nhà trường đã thành lập câu lạc bộ "Văn nghệ dân gian người Mạ". Câu lạc bộ đã thu hút khá nhiều học sinh tham gia; những thành viên trong câu lạc bộ không chỉ có học sinh người Mạ mà còn có cả các bạn người Kinh, người Tày và các dân tộc khác. Khi được các nhà nghiên cứu và các giáo viên động viên, truyền cảm hứng, các em tham gia rất tích cực và thể hiện niềm đam mê đối với văn hóa, nghệ thuật dân tộc.

Trong quá trình điền dã, nhóm nghiên cứu đã phối hợp với nhà trường tổ chức một số buổi học đặc biệt - buổi học trao truyền. Trong lớp học ấy, không phân biệt người trẻ hay người già, là thầy hay là trò, là người Kinh hay người dân tộc Mạ, tất cả đều thể hiện cảm xúc đắm đuối với tình yêu âm nhạc truyền thống bản địa. Thanh âm từ những nhạc cụ thân thuộc với không gian rừng già vang vọng lên như mời mọc, như níu kéo, cùng tạo nên một trường cảm xúc, liên tưởng hấp dẫn và thú vị. Với niềm tự hào sâu sắc về giá trị di sản, nghệ nhân già vừa tâm tình, vừa giới thiệu từng loại nhạc cụ, từng bản nhạc, điệu thức, vừa uốn nắn những động tác cho các em làm quen với cồng chiêng, với kèn bầu, đàn tre, với tiếng sáo bre. Các em cũng đắm chìm trong không gian huyền diệu của âm nhạc, của tiếng lòng đồng vọng với những thanh âm dạt dào cảm xúc tự ngàn xưa hiện về. Em K’Thư, học sinh lớp 10 chia sẻ: "Được xem các nghệ nhân biểu diễn, được học cách sử dụng nhạc cụ, em cảm thấy yêu và tự hào về di sản văn hóa của dân tộc mình. Em nhận thức rằng, mình cần có trách nhiệm bảo tồn các giá trị truyền thống đang dần mất đi." Còn em Đỗ Thị Thúy Kiều, người Kinh, học sinh lớp 11 cũng nói: "Em đã tiếp xúc với các bạn đồng bào dân tộc thiểu số từ khi còn nhỏ; vì thế, em yêu văn hóa Mạ cũng như sự quý mến bạn bè người đồng bào thiểu số của em vậy. Em thấy thích thú và bổ ích khi được tham gia những buổi học sử dụng nhạc cụ truyền thống. Những lúc như vậy đã giúp em trở nên gắn kết với các bạn, có thêm nhiều kỹ năng và hiểu biết thêm về văn hóa tộc người nơi em đang sống…".

***

Tiết học đặc biệt-nghệ nhân K’Trời đến lớp trao truyền văn hóa cho các cháu học sinh.
Tiết học đặc biệt-nghệ nhân K’Trời đến lớp trao truyền văn hóa

cho các cháu học sinh.

Về Lộc Bắc, chúng tôi đã có một đêm trong ngôi nhà dài cuối cùng trên vùng đất người Mạ. Không phải trong mùa lễ Nhô rhe-mừng lúa mới, nhưng không gian thật ấm áp trong một mối giao tình đặc biệt. Đêm trao truyền âm nhạc truyền thống, đêm mà các nghệ nhân người Mạ đã dốc trọn tâm huyết và sự hiểu biết cho con cháu của mình, giúp con cháu tiếp nhận những giá trị âm nhạc mà tổ tiên gửi lại. Đêm của người già hòa điệu cùng người trẻ. Đêm của những cư dân các dân tộc khác nhau cùng chung một nhịp điệu cảm xúc. Đêm có cây nêu, có rượu cần, và đặc biệt có dòng thanh âm huyền diệu của cồng chiêng, kèn bầu, sáo tre, kèn môi… cất lên lời của núi non, suối thác, của tiếng lòng những người con của đại ngàn Tây Nguyên. Sau những nghi lễ của các chủ nhân buôn Mạ, sau lời khấn mời thần linh chứng giám của già làng K’Diệp như cảm thức vọng về từ ngàn xưa, là những cần rượu trao tay, là những hồn người đồng cảm. Trong men say, nhịp chiêng droòng đã thập thùng huyễn hoặc bên bếp lửa giữa nhà. Tiếng kèn bầu gợi cảm, tiếng sáo bre réo rắt. Những nghệ nhân già bước vào vòng tấu chiêng; những người trẻ tiếp bàn tay người già; tạo nên một cuộc trao truyền đầy tâm huyết và giao cảm. Chứng kiến hình ảnh ấm áp và đầy ý nghĩa ấy, chúng tôi như được củng cố thêm niềm tin, rằng ngọn lửa đam mê với âm nhạc truyền thống sẽ không bao giờ tắt ở vùng đại ngàn xa xôi Lộc Bắc…

Một thực tế là cũng như nhiều dân tộc khác, hiện nay người Mạ không còn cư trú độc lập như ngày xưa mà sống xen kẽ với đồng bào các dân tộc khác. Sự giao thoa và tiếp biến văn hóa đã khiến cho những nghi lễ liên quan đến vòng đời con người ngày càng phai dần. Mặt khác, trên đất rẫy người Mạ bây giờ hầu hết là những vùng chuyên canh cây công nghiệp thay cho những nương lúa rẫy truyền thống. Vì thế, chuỗi nghi lễ nông nghiệp liên quan đến vòng đời cây lúa cũng dần tiêu vong. Ít dần các nghi lễ, lễ hội, không gian thực hành văn hóa mất dần thì cũng đồng nghĩa với các nhạc cụ dân tộc bản địa ngày càng ít được sử dụng và dần phai nhòa trong ký ức tộc người. Trong một tương lai không xa, nếu những giá trị văn hóa ấy không được trao truyền thì chắc chắn sự mai một âm nhạc và nhạc cụ dân tộc Mạ là điều không thể tránh khỏi.

Trong cuộc trải nghiệm văn hóa thú vị này, chúng tôi đã cùng các nghệ nhân, các thầy, cô giáo và học sinh Trường THCS và THPT Lộc Bắc giúp nhau củng cố thêm tình yêu và niềm đam mê đối với văn hóa Mạ. Chúng tôi cũng tin rằng, hành động nhỏ này sẽ góp phần gieo niềm cảm hứng trên hành trình dẫn dắt thế hệ trẻ đến với những giá trị tuyệt vời trong kho tàng di sản văn hóa tộc người.

Có thể bạn quan tâm

Chương trình văn nghệ Kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh tại Quảng trường Ba Đình sáng 2/9/2025.

Vinh quang mãi mãi thuộc về Nhân dân!

Đó là câu cuối trong bài diễn văn súc tích, ý nghĩa của Tổng Bí thư Tô Lâm trên Quảng trường Ba Đình lịch sử tại Lễ kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9 vừa qua. Cũng tại nơi đây, lời Quốc ca vang lên cùng những hình ảnh cờ hoa, những gương mặt ngời lên rạng rỡ của vạn người sẽ mãi mãi ghi vào tâm khảm nhân dân.

Nhà báo Hồng Châu, tức Thép Mới (bên phải) và nhà báo Cao Kim, tức Kim Toàn - hai nhà báo của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam từng bí mật hoạt động báo chí tại Sài Gòn - Gia Định trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968.

Nhà báo Kim Toàn - Người truyền cảm hứng

Câu chuyện bắt đầu từ giữa năm 2024, khi Bảo tàng Báo chí Việt Nam “nhận lệnh” của lãnh đạo Hội Nhà báo Việt Nam, chính thức khởi động việc xây dựng kế hoạch hoạt động cho năm 2025 - một năm đặc biệt vì có rất nhiều ngày lễ lớn trọng đại của đất nước.

Cổng đình Phú Gia.

Làng Chăm nghìn tuổi giữa đất Hà thành

Chuyện mà tôi đang kể là về vùng đất Phú Gia, một ngôi làng đặc biệt. Làng nằm cách trung tâm Hà Nội hơn mười cây số về phía tây bắc. Phú Gia xưa tên Nôm là làng Gạ, tục gọi làng Già rồi Bà Già hương; đến thời Minh Mạng là tổng Phú Gia, huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức, trấn Sơn Tây.

Trung tâm huyện Đạ Huoai, nơi có nhiều người dân Huế lập cư.

Một vùng quê Huế trên đất nam Tây Nguyên

Trong rất nhiều chương trình di dân sau ngày thống nhất đất nước, có câu chuyện về một vùng quê mới của người xứ Huế, được lập ra từ gần nửa thế kỷ trước. Vùng quê ấy xưa gọi là khu kinh tế mới Hương Lâm, nay thuộc xã Đạ Lây, huyện Đạ Huoai-vùng đất phía nam Lâm Đồng…

Hai cán bộ của Ban Binh vận đặc khu Sài Gòn- Gia Định: Ông Lê Quang Đức (người ngồi) và ông Cao Đức Trường (người đứng).

Kỳ 2: Những con đường “không giống ai” của tình yêu đất nước

Khác với hầu hết các lực lượng cách mạng cùng tham gia chiến đấu giành lại hoà bình, độc lập cho dân tộc, những cán bộ làm công tác binh vận phải nhận về mình rất nhiều nguy hiểm, thiệt thòi, khi luôn phải sống “hai mặt”, che giấu thân phận thật sự của mình, trong khi tìm mọi cách để cảm hoá, vận động các đối tượng binh sĩ ngụy quyền trở về với chính nghĩa, với dân tộc…
Sau khi ném bom dinh Độc Lập, phi công Nguyễn Thành Trung đã lái máy bay F5E hạ cánh an toàn xuống sân bay Phước Long. Ảnh tư liệu

Mặt trận “không đánh mà thắng"

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: Đánh mà thắng địch là giỏi, không đánh mà thắng càng giỏi hơn. Không đánh mà thắng là nhờ địch vận. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, truyền thống "tâm công" (đánh vào lòng người) của các bậc tiền nhân đã được Đảng Lao động Việt Nam phát triển lên một tầm cao mới và được quân và dân ta sử dụng như một thứ vũ khí sắc bén để tạo nên sức mạnh tổng hợp, áp đảo, đập tan mọi sự kháng cự của kẻ địch.

Cựu chiến binh Nguyễn Đình Quốc kể về những năm tháng gian lao nhưng vô cùng anh dũng. Ảnh: LƯU XA

Những người kể chuyện hòa bình

Không chỉ kiên cường trong chiến đấu, nhóm cựu chiến binh bị địch bắt tù đày, trở về đời thường vẫn mang tinh thần bất khuất của người lính, không ngại gian khó. Các ông dày công xây dựng Bảo tàng Chiến sĩ cách mạng bị địch bắt tù đày, biến nơi đây thành “địa chỉ đỏ” tri ân các đồng đội đã ngã xuống, đồng thời lan tỏa lòng yêu nước và giá trị của hòa bình cho các thế hệ sau.
Lớp học mầm non ở buôn Ka Ming. (Ảnh: Uông Thái Biểu)

Đất giàu, đất học Ka Ming

Ngày trước buôn Ka Ming thuộc xã Gung Ré, nay là một trong những khu phố của thị trấn Di Linh (huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng). Với 100% dân số là đồng bào dân tộc Cơ Ho thuộc nhánh Srê, buôn làng này thật sự là một vùng đất lành, đất giàu và đặc biệt là đất học nổi tiếng trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số Tây Nguyên.
Các chiến sĩ lữ đoàn 162 gói bánh chưng chuẩn bị đón Tết.

Đón xuân trên chiến hạm

Đón giao thừa trên chiến hạm không rượu, bia thuốc lá, hồi còi tàu thay cho pháo, nhưng lại có những điều đặc biệt khác mà ít người có thể hình dung ra được…
Làng Nubian trên đảo Elephantine.

Ngôi làng cổ huyền bí giữa dòng sông Nile

Nằm ở phía nam Ai Cập, cách thủ đô Cairo khoảng 800 km, thành phố Aswan bên bờ sông Nile là cửa ngõ của Ai Cập xuống phía nam châu Phi. Đây là nơi sinh sống của người Nubian, một nhóm bộ tộc di cư, đến từ miền bắc Sudan. Điều đó giải thích tại sao họ có tông màu da sẫm hơn người Ai Cập.
Ông Quang Văn Thu (thứ bảy, từ trái sang) và người dân phối hợp tuần tra đường biên, cột mốc cùng chiến sĩ Đồn Biên phòng Thông Thụ (huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An). Ảnh: NGUYỄN ĐẠO

"Cột mốc sống" nơi biên cương xanh thẳm

Nước ta có 4.510 km đường biên giới đất liền trải dài từ bắc tới nam. Chủ quyền quốc gia được xác lập, gìn giữ từ những cột mốc đánh dấu tọa độ và từ chính những bước chân lặng thầm bền bỉ không kể ngày - đêm, mưa - nắng của những người lính biên phòng cùng hàng hàng lớp lớp người dân tình nguyện trở thành những "cột mốc sống".
Đoàn thực hiện nghi lễ chào cờ tại đảo Cồn Cỏ. Nguồn: ĐI ĐỂ HIỂU

Hành trình của lòng tự hào và biết ơn

Bùi Thiên Phú, cậu bé 10 tuổi ở thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh vừa có chuyến đi đầu tiên cùng ông ngoại về miền đất lửa Quảng Trị, nơi hơn 50 năm trước ông của cậu từng chiến đấu. Đứng trên cầu Bến Tắt bắc qua vĩ tuyến 17 lịch sử - nơi từng là ranh giới tạm thời chia cắt đất nước, Phú nhìn theo hướng tay ông ngoại chỉ và nghe ông kể: "Ngày ấy, đơn vị ông đóng quân ngay phía bên trái cầu, làm nhiệm vụ bảo đảm thông tin liên lạc thông suốt"...
Thị trấn Thanh Chương hôm nay. Ảnh: Lê Anh Dũng

Thanh Chương - Miền văn hùng võ lược

Nếu kể đến một vùng quê địa linh nhân kiệt, kiên cường cách mạng và hiếu học, không thể không nói đến Xứ Nghệ. Nói đến Xứ Nghệ, có lẽ không thể không nói đến Thanh Chương.
Nạo vét, khơi thông dòng chảy sông Lừ (Hà Nội). Ảnh: HẢI MIÊN

Kỳ 2: "Cắt ngọn" hay "cải tạo gốc"?

Mặc dù số liệu ghi nhận các trường hợp xả thải sai quy định bị phát hiện, mức độ xử phạt vi phạm ngày càng tăng trong những năm gần đây, nhưng tình trạng ô nhiễm các dòng sông vẫn không được cải thiện đáng kể. Cùng với nỗ lực xử lý "phần ngọn", đã có những mô hình cải tạo "từ gốc" được triển khai.
Không gian hồ sinh thái Na Hang mang một mầu xanh huyền bí.

Vùng thẫm xanh tuyệt sắc

Đặt chân đến bến tàu lòng hồ sinh thái Na Hang (Tuyên Quang), choán ngợp trong tôi là cảm giác yên bình giữa một vùng trong xanh, thấm đến cả năm giác quan. Nơi đây, mỗi người được thảnh thơi thả mình theo tiếng sóng nước, tiếng gió vi vu quyện hòa những âm thanh kỳ diệu của thiên nhiên. Người Na Hang, Lâm Bình đã dựa vào những vẻ đẹp thiên nhiên ban tặng để làm du lịch, gìn giữ văn hóa và từng bước nâng cao đời sống tinh thần của mình.
Lễ đài Ba Đình đầu tiên bằng gỗ ván do KTS Nguyễn Văn Ninh thiết kế. Nguồn: Gia đình Kiến trúc sư Nguyễn Văn Ninh cung cấp.

Kỳ 2: “BÁC Ở THẾ NÀY LÀ QUÁ SANG TRỌNG” (Tiếp theo và hết)

Được sống những khoảnh khắc bên vị lãnh tụ kính yêu của toàn dân tộc, được thiết kế, xây dựng nơi ở và làm việc của Bác là những khoảnh khắc vàng của người kiến trúc sư mà không phải ai cũng vinh dự có được. Nhân cách và trí tuệ vĩ đại, lòng độ lượng, bao dung, nhân hậu, khiêm tốn và giản dị của Người mãi mãi tỏa sáng trong tâm hồn của Nguyễn Văn Ninh; luôn thức dậy trong lòng vị kiến trúc sư niềm khao khát sáng tạo và cống hiến cho dân, cho nước…

Bác Hồ chụp ảnh lưu niệm cùng nhóm thiết kế và thi công nhà sàn của Người. Nguồn: Gia đình cung cấp

Kỳ 1: "Chú lo cho bác một ngôi nhà sàn truyền thống…"

Người Việt Nam nào cũng từng lưu vào trái tim mình hình ảnh ngôi Nhà sàn trong Khu Di tích quốc gia đặc biệt Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch. Ngôi nhà sàn-nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sống và làm việc trong hơn một thập niên cho đến ngày Người mãi mãi về cõi vĩnh hằng đã trở thành một trong những biểu tượng thể hiện cốt cách thanh tao, cao quý của vị Cha già dân tộc. Người thiết kế và chỉ huy thi công nhà sàn là kiến trúc sư Nguyễn Văn Ninh, nhân vật trong câu chuyện mà tôi đang kể…
Bia di tích Trạm hậu cần hỏa tuyến Nà Tấu, sau hai lần chuyển địa điểm.

Tìm lại dấu tích con đường huyền thoại (★)

Nhiều tài liệu viết về Điện Biên Phủ của tác giả nước ngoài đều khẳng định rằng: Công tác bảo đảm hậu cần là một mặt trận hết sức nóng bỏng và quyết liệt với cả hai bên, bởi nó là cầu nối giữa hậu phương với tiền tuyến.
Lắng nghe những hồi ức của cụ Trần Xuất Chúng.

Tìm lại dấu tích con đường huyền thoại

Tròn 70 năm trước, một con đường tiếp vận chiến lược với những điều kiện "không tưởng" đã được những bộ óc thiên tài quân sự của quân đội ta vạch ra, huy động nguồn lực từ nhân dân để làm nên một chiến dịch hậu cần "không thể thực hiện được" như đánh giá của các chiến lược gia của quân đội viễn chinh Pháp. Con đường tiếp vận chiến lược đó đã tạo nên điều kiện quan trọng nhất, cũng là sự bất ngờ lớn nhất, để bộ đội ta có thể chiến đấu và chiến thắng trên chiến trường lịch sử Điện Biên Phủ. Trong những ngày tháng 4 lịch sử này, khi thực hiện hành trình tìm lại những dấu tích của con đường huyền thoại năm xưa, chúng tôi được hiểu rõ hơn về một thời những người dân Việt Nam hào hùng ra trận, hiểu rõ hơn vì sao chúng ta chiến đấu và chiến thắng...
Mốc số 0 cực tây là điểm đến thu hút khách du lịch.

Những người lính viết tiếp huyền thoại nơi cực tây Tổ quốc

Chuyến trở lại Tây Bắc tuần trước, tình cờ tôi gặp lại hai sĩ quan ở Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Điện Biên, cả hai anh đều từng là Đồn trưởng Đồn Biên phòng A Pa Chải- đồn xa nhất ở cực tây Việt Nam, Đại tá Nguyễn Đức Thắng nay là Trưởng phòng Trinh sát và Trung tá Đặng Tuấn, nay là Chánh Văn phòng Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh. Gần hai mươi năm gắn bó với Tây Bắc, đã đi rất nhiều nơi, gặp gỡ và thân thiết với nhiều bạn bè lính biên, nhưng không hiểu sao cực tây Việt Nam luôn thao thức trong tôi như một nơi chốn "thuộc về".
Với sự cần cù, người dân đã khiến đá trổ xanh. Ảnh: Giang Toan

Khúc tráng ca xứ đá

Đã nhiều lần đến "xứ đá" Hà Giang, song mỗi lần trở lại trong tôi luôn ngập đầy cảm xúc và sự nể phục sức sống mãnh liệt của người dân trước thiên nhiên khắc nghiệt. Nơi đây, đá giăng tứ bề, đá thành rừng thử thách bước chân con người. Cuộc sống vất vả đủ đường nhưng người dân vẫn vươn lên, bám bản, khiến đá nở hoa.
Tác giả bên Bia tưởng niệm Di tích cuộc võ trang vượt ngục ngày 12/12/1952.

Kỳ IV: Ngút trời linh khí (Tiếp theo và hết)

Nơi này là vùng đất thiêng. Mỗi hòn đá cành cây, mỗi đợt sóng dâng trào biển khơi hay sẫm mầu núi biếc Côn Đảo đều có thể kể một câu chuyện về những thời, những người đã qua. Từng tấc đất trên đảo nhỏ giữa trùng khơi đều lưu những dấu tích của lòng uất hận và ý chí ngoan cường của những người Việt vì đại nghĩa Tổ quốc mà có thể hiến dâng cả thân xác vô cùng quý giá của mình.
Nhà Công quán Côn Đảo, nơi nhà soạn nhạc Charles Camille Saint Saens viết chương cuối của vở nhạc kịch "Hoàng hậu Fredegonde".

Kỳ III: Âm nhạc và ngục tù

"Hoàng hậu Fredegonde" là một vở nhạc kịch bất hủ của nhà soạn nhạc thiên tài người Pháp Charles Camille Saint Saens (1835-1921). Ông là một nhạc sĩ thuộc trường phái lãng mạn. Tên tuổi của ông được xếp vào những nghệ sĩ hàng đầu châu Âu theo người đương thời đánh giá và ông là Viện sĩ Viện Hàn lâm Pháp quốc. Vở nhạc kịch và nhà soạn nhạc của quốc gia xa xôi ấy thì có liên quan gì đến Côn Đảo, nơi được mệnh danh là "địa ngục trần gian" giữa trùng khơi Việt Nam?
Chị Trang (bên phải) và chị Xiêm nỗ lực làm tranh cuốn giấy, vừa để kiếm thêm tiền trang trải chi phí, vừa để quên đi phần nào bệnh tật.

Thổi âm thầm những cơn gió mát

Mùa nắng nóng, có lúc cả bầu trời như cái chảo lửa khổng lồ khiến ngay cả những tán cây cũng teo tóp. Thế nhưng vì mưu sinh, không ít người lao động nghèo vẫn phải oằn mình ngoài đường phố Hà Nội, nhiều bệnh nhân chạy thận trú mình trong những căn phòng trọ vài mét vuông. Trong gian khó vẫn luôn có những bàn tay thiện nguyện trao yêu thương, cách con người đối đãi với nhau như cơn gió mát lành tiếp sức cho mỗi phận người.
Du khách tham quan Sở Chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ tại Mường Phăng.

Về Mường Phăng nhớ ghé Che Căn

Cái tên Mường Phăng, tỉnh Điện Biên đã đi vào lịch sử và suy nghĩ của nhiều người khi địa danh này là nơi đặt Sở Chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954. Vậy nhưng, nếu đến Mường Phăng thì sẽ biết đến Che Căn. Hiện nay, Mường Phăng nỗ lực biến Che Căn trở thành địa điểm du lịch trọng điểm với lợi thế riêng có là Khu di tích Sở Chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ và cảnh quan thiên nhiên độc đáo tại nơi này…
Bé Kiều Oanh và bạn xem phim hoạt hình tại phòng trọ.

Mang yêu thương nâng đỡ yêu thương

Một căn nhà trọ đặc biệt vừa khánh thành tại chợ Tân Phú, phường Tân Phú, thành phố Thủ Đức (TP Hồ Chí Minh). "Đặc biệt" vì đây là "nhà trọ 0 đồng" dành cho các em nhỏ không may mắc phải căn bệnh hiểm nghèo.
Nhà dài, kiến trúc độc đáo và đặc sắc của người Ê Đê.

"Buôn trong phố" đã hồi sinh

Không gian đô thị hết sức đặc thù, với những buôn làng của cộng đồng người Ê Đê, được kiến tạo nên từ hàng trăm năm qua, nhưng "cơn lốc" đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ đã nhanh chóng đẩy những không gian văn hóa đặc biệt đó của TP Buôn Ma Thuột (Đắk Lắk) lùi xa, hoặc biến dạng một cách đáng kinh ngạc.

Già làng - nghệ nhân chỉnh chiêng người dân tộc Mạ.

Kỳ II : Trống cái giữa dàn chiêng

Tôi hỏi: “Thời bây giờ, vai trò của già làng còn thật sự quan trọng nữa không?”. Ông K’Điệp, một trí thức người Cơ Ho nói rằng: “Già làng nói - dân làng nghe; già làng hô - dân làng hưởng ứng; già làng làm - dân làng làm theo. Có nghĩa là vai trò của già làng vẫn rất quan trọng, nhất là trong việc hỗ trợ cấp ủy, chính quyền vận động quần chúng…”.