Thi ca phải nâng cao tâm hồn con người

Nhà thơ Bế Kiến Quốc sinh ngày 19/5/1949 tại Nam Định. Sau khi tốt nghiệp khoa Ngữ văn Trường đại học Tổng hợp Hà Nội (1970), Bế Kiến Quốc từng học Trường bồi dưỡng Những người viết văn trẻ của Hội Nhà văn Việt Nam (1972), rồi tham gia Khóa học cao cấp rút gọn của Học viện Văn học Gorki (Liên Xô-1988).
Ký họa chân dung nhà thơ Bế Kiến Quốc của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.
Ký họa chân dung nhà thơ Bế Kiến Quốc của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Về công tác ở tuần báo Văn Nghệ từ năm 1977, ông từng là Trưởng ban Thơ, Trưởng ban Thư ký. Năm 2000, ông được bầu làm Phó Tổng Thư ký Hội Nhà văn Hà Nội và về làm Tổng Biên tập báo Người Hà Nội. Ông qua đời năm 2002 vì bệnh hiểm nghèo.

Bế Kiến Quốc đã in 5 tập thơ, được trao nhiều giải thưởng của Báo Văn Nghệ, Hội Liên hiệp VHNT Hà Nội và Việt Nam, Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật.

Nổi tiếng về thơ, ngay từ thời còn là sinh viên khoa Ngữ văn-Đại học Tổng hợp Hà Nội, Bế Kiến Quốc đã đoạt giải nhì cuộc thi thơ toàn quốc của tuần báo Văn Nghệ năm 1969.

Tuy thành công sớm về thơ, nhưng Bế Kiến Quốc vẫn luôn là người khiêm nhường, lặng lẽ. Ông không thích những "tuyên ngôn" ồn ào về thơ ca có tính khoe khoang, phô trương hình thức. Bởi thật ra, kể cả về mặt lý luận, phê bình thơ lẫn sáng tác, trong nhiều năm Bế Kiến Quốc đã có hẳn một cái nền tri thức rất cơ bản, phong phú về nhiều mặt. Ông tự bạch: "Theo tôi, thơ có giá trị là thơ phải nâng cao tâm hồn con người. Những nhà thơ thành công là những nhà thơ nói được tiếng nói của thời đại, của đất nước, chứ không phải những nhà thơ chỉ có "kỹ thuật cao". Và, điều quan trọng là thơ phải luôn luôn hướng về phần sáng của cuộc đời". Trong bài thơ Nhớ Na-dim Hik-mét, Bế Kiến Quốc viết:

Tất cả cái no vô nghĩa

Nếu chỉ đói một người

Tất cả vô nghĩa niềm vui

Nếu chỉ buồn đau còn một người

Tất cả tự do cũng vô nghĩa

Nếu chỉ một người bị nô lệ

Tất cả công bằng cũng là không

Nếu còn một người chịu bất công

Trao đổi với bạn bè đồng nghiệp, Bế Kiến Quốc thường tâm niệm: "Đối với văn học, để sáng tác hay và có ích, cần phải sống hết mình-sống với mọi người, với thế giới, với truyền thống văn hóa của dân tộc và của nhân loại, sống với quá khứ, với hiện tại và tương lai.

Sáng tác văn học cũng là một loại công việc, mà người ta làm nhằm mang lại cho thế giới tốt đẹp hơn, công bằng hơn, và trong cái thế giới đó, mọi người đều được thương yêu, trân trọng và cũng thương yêu trân trọng người khác. Và bởi vậy những sáng tác của tôi luôn hướng về cái thiện và cái đẹp".

Trong tập thơ Mãi mãi ngày đầu tiên (NXB Hội Nhà văn- 2002), ở Bài không tên số 10, ông tâm sự với chúng ta: "Sao cứ mong một cái gì hoàn thiện, trong cõi đời không thể nào hoàn thiện?/ Sao cứ muốn một điều gì vĩnh cửu, trong thế gian không vĩnh cửu bao giờ/ Anh, kẻ suốt đời theo đuổi những giấc mơ".

Nhưng ngay cả khi nhận ra trong cái cõi người không hoàn thiện, không vĩnh cửu này, nhà thơ chỉ là kẻ suốt đời theo đuổi những giấc mơ, thì Bế Kiến Quốc vẫn mong ước: "Dù ở đâu qua đêm/ Ta cũng cần có em/ Ngọn lửa ấm thơm nồng sáng/ Và ta ngồi đốt những đám mây buồn, những cánh buồm lạc gió, những lá bùa gở, những mặt nạ cười/ Và ta hong khô những chân trời, những cánh bướm, những lời hứa/ Và ngôi sao Hôm qua lửa/ Tái sinh một đóa sao Mai".

Thơ Bế Kiến Quốc giàu suy ngẫm với nhiều ý tưởng lạ, nhưng ông không nghiêng hẳn về phía trình bày những khám phá nội tâm đang day dứt, ám ảnh con người hiện đại, mà luôn có ý hướng sự tìm tòi của mình về phía đời sống lớn lao ở chung quanh chúng ta. Điều này thể hiện khá rõ trong bài thơ Bế Kiến Quốc viết lúc ông mới 22 tuổi (vào tháng 1/1971) để tưởng nhớ nhà thơ Pháp nổi tiếng Pôn Êluyar:

Con người có một bản năng là khao khát niềm vui

Có một bản năng là làm ra hạnh phúc

Mỗi người sinh ra yêu trái đất

Lại trồng thêm hoa trước lúc đi xa

Những bông hoa cẩm chướng thẫm đỏ mượt mà

ấm áp như lao động.

Dấu ấn của phong cách thơ Bế Kiến Quốc thể hiện khá đậm đặc và thống nhất trong tập thơ Mãi mãi ngày đầu tiên. Ông tạo dựng tứ thơ khá công phu và tính toán kỹ tới từng khổ thơ, từng câu thơ. Có cảm giác, mỗi bài thơ đều được ông viết đi viết lại khá nhiều lần, để tìm ra một "hàm lượng" ngôn ngữ tối ưu trong cách diễn đạt những ý tưởng mới.

Dường như ông chủ ý tước bớt cảm xúc và không chịu viết những câu thơ dễ dãi, để hướng tới cách thể hiện có vẻ trần trụi, khô khan nhưng lại chuyển tải được nhịp điệu sống hiện đại của ngày hôm nay.

Và tôi chợt nghĩ rằng: trước lúc đi xa, trong chuyến đi vô tận vào cõi vĩnh hằng, Bế Kiến Quốc đã để lại cho chúng ta "Những bông hoa cẩm chướng thẫm đỏ mượt mà/ấm áp như thơ của anh và tâm hồn anh vậy!". Vì con người Bế Kiến Quốc cũng giống như thơ ông, luôn yêu tin cuộc đời, luôn hướng về phần tốt đẹp của con người.

Minh họa thơ: Nguyễn Minh
Minh họa thơ: Nguyễn Minh

Nhân Dân hằng tháng trân trọng giới thiệu hai bài thơ tiêu biểu của nhà thơ Bế Kiến Quốc:

ĐUỐC LÁ DỪA

Một lần nào đó trong mưa

Gặp người cầm đuốc lá dừa dẫn đi

Lặng im chẳng nói năng gì

Phừng phừng lửa có điều chi dấu mình

Một lần nào đó, dòng kênh

Chiếc xuồng máy rẽ lục bình đêm mưa

Một người đứng mãi bên bờ

Giơ cao cây đuốc lá dừa dõi theo

Một lần nào đó xóm nghèo

Về thăm, lòng hứa thương yêu trọn đời

Rồi ta đi, rồi ta vui,

Rồi ta quên... dòng nước trôi xa mình...

Và cầu ván đã long đinh

Loi thoi so đũa bờ kênh lệch hàng

Và bao lời hẹn lỡ làng

Gió lùa đã tướp liếp bàng nắng mưa

Một lần nào đó trong mơ

Cầu sao được đuốc lá dừa lại soi

1988-1992

NHỚ MẸ

Buồn hay vui con cũng đã quay về

Đi lẫn vào dòng người vừa tan tầm máy dệt

Những hạt bông trên áo quần, trên tóc

Ai thì không nhận ra, con thì con nhận ra

Vì ngày xưa khi tan tầm về nhà

Mẹ cũng có những hạt bông như thế

Và thời gian-khi con còn bé

Được chia theo thời gian của mẹ,

Thành ca sáng, ca chiều, ca đêm

Và căn bệnh đầu tiên mà con biết, là từ mẹ: bệnh tim

Vì thế, khi thấy con làm thơ, mẹ buồn nhưng chẳng nói

Giữa nghề dệt ngôn từ với nghề dệt vải

Mẹ biết, chọn nghề gì con cũng gặp gian nan.

Giờ thì muộn rồi. Ca sáng vừa tan

Những người thợ ra về

- những hạt bông trên áo quần trên tóc...

Bốn mươi năm... ngỡ có gì đâu khác?

Chỉ mẹ đã không còn. Và con lại bệnh tim

Nam Định tháng 9/1998

Có thể bạn quan tâm

Ký họa chân dung nhà thơ Vi Thùy Linh của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Vi Thùy Linh và hành trình vượt lên chính mình

Tính từ bài thơ đầu tiên viết năm 15 tuổi (tháng 9/1995), sau này được đưa vào tập thơ đầu tay (Khát, NXB Hội Nhà văn, 1999), Vi Thùy Linh đã có một hành trình sáng tác 30 năm với 7 tập thơ. 30 năm trôi đi gắn với bao đổi thay, biến động trong đời sống, thiếu nữ Vi Thùy Linh đã là bà mẹ hai con.

Ký họa chân dung nhà thơ Trần Nhật Minh của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Trần Nhật Minh - Thơ và những cuộc du chơi

Đã từng làm việc ở Ban Văn học - Nghệ thuật - Âm nhạc, Đài Tiếng nói Việt Nam, Trần Nhật Minh quen biết, giao du với nhiều văn nghệ sĩ. Minh không chơi thì thôi, đã chơi thì luôn hết lòng với bạn.

Ký họa chân dung nhà thơ Nguyễn Hùng Vĩ của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

“Em đem mùa hạ rót vào mùa đông”

Những đêm mùa đông chờ Xuân, nơi căn phòng nhỏ ấm, lũ sinh viên nghèo lại quây quần quanh thầy Nguyễn Hùng Vĩ, giảng viên Khoa Ngữ văn, Trường đại học Tổng hợp Hà Nội (cũ), một ông giáo hồn hậu, quê nghèo lam lũ xứ Nghệ, luôn trọng nghĩa trọng tình.

Nhà thơ Vân Anh.

Thơ Vân Anh “mặc định nhịp trẻ”

Dễ thấy lâu nay, người viết khi cho in tuyển tập đồng nghĩa với việc gom lại, khép lại quá trình sáng tác. Nhưng cũng có người sau đó vẫn tiếp tục xuất bản tác phẩm, không phải “út, ít” bòn mót, mà là những “đứa con” bụ bẫm, khỏe mạnh, ai cũng tấm tắc, trầm trồ.

Ký họa chân dung nhà thơ Trần Hoàng Thiên Kim của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Vì yêu mà thao thức

Trần Hoàng Thiên Kim là cái tên không xa lạ với công chúng ở các lĩnh vực báo chí, truyền hình, nghiên cứu văn học hay thơ ca.

Ký họa chân dung nhà thơ Ngô Thanh Vân của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Em và phố và thơ

Ai đó đã từng nói: thơ là bản tự thuật của tâm hồn. Thật thế. Ngoài đời, con người có thể phần nào che giấu được mình, nhưng trong thơ thì không.
Ký họa chân dung nhà thơ Phùng Thị Hương Ly của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Cõng lời thương trên lưng

Nữ nhà thơ Phùng Thị Hương Ly sinh ra và lớn lên ở Bắc Kạn, người Tày, học ngành viết văn, sau ra trường làm báo, hiện sống và viết tại quê hương. Một phác thảo lai lịch như thế cho thấy hai điểm quan trọng: người thơ ấy có một vốn liếng hết sức tự nhiên, sống động về nơi chốn mình, dân tộc mình và được đào tạo bài bản trong môi trường viết.
Ký họa chân dung nhà thơ Huỳnh Thúy Kiều của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

NỒNG NÃ HƯƠNG VỊ MIỀN CHÂU THỔ CHÍN RỒNG

Nhà thơ Huỳnh Thúy Kiều sinh ra và lớn lên ở chính giữa lòng châu thổ Cửu Long. Hiện chị cũng sống và viết tại đây. Như thế, tức là cả đời “ăn chịu” quê hương, xứ sở. Như nắng như gió, như đất như cây, như điệu ca vọng cổ, thơ Huỳnh Thúy Kiều cứ thế cất lên tự nhiên, đậm hương, nồng vị và lan tỏa.
Ký họa chân dung nhà thơ Đào Quốc Minh của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Một phác thảo thơ Ðào Quốc Minh

Những năm gần đây, cái tên Đào Quốc Minh trở nên khá quen thuộc trong văn giới và bạn đọc. Anh viết và xuất bản đã có đến năm sáu tập thơ; tập gần đây nhất là “Phục sinh” (Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2024) với dung lượng khá lớn, 180 bài.
Ký họa chân dung nhà thơ Nguyễn Thị Hồng Ngát của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

“Quả thơm thì ở lại”

Người ta vẫn thường hay nói nhà thơ không có tuổi. Đó là một cách nói vui, lãng mạn, nghiêng về phía an ủi nhau. Thật ra, ai cũng vậy thôi, nhà thơ cũng như tất thảy chúng sinh, không tránh khỏi quy luật của tự nhiên. Tất thảy chúng ta già dần dần, đi theo quy luật của muôn đời: sinh, lão, bệnh, tử… không thể khác.
Ký họa chân dung nhà thơ Trần Kim Hoa của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Thơ của những ký ức cất lời

Trần Kim Hoa làm thơ dễ đã 30 năm có lẻ. Và đã ra được 3 tập thơ riêng đầy đặn, trong đó tập Bên trời gần đây nhất đã được trao Giải thưởng thường niên của Hội Nhà văn Việt nam (2020). Trong vòng ngần ấy thời gian, với 3 tập thơ, cho thấy tác giả không phải là người ham chạy theo số lượng.
Ký họa chân dung nhà thơ Đoàn Văn Mật của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

“Sáng lên từ những nhỏ nhoi”

Cho đến nay, Đoàn Văn Mật đã trình làng ba tập thơ, tập gần đây nhất là “ Ngoài mây trời đầy trống vắng ” (NXB Hội Nhà văn, 2023).
Ký họa chân dung nhà thơ Kiều Maily của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Thơ, hoa của người

Trong bài thơ mang tên “Nàng, hoa của cát” (đồng thời cũng được lấy làm tên cho tập thơ, NXB Hội nhà văn, 2019), nhà thơ Kiều Maily đã có những câu thơ như thể tự họa về mình: Nàng, hoa của cát/ yếu đuối giữa men tình/ kiêu hãnh với cô đơn/ nỗi mơ cuốn nàng về miền hạnh phúc/ Nàng, hương của đất/ chắt chiu giọt phù sa nuôi nấng đời cây/ hẹn mùa gieo hạt. Bài thơ có ba chủ thể: nàng, hoa và cát trong mối quan hệ gắn bó, ràng rịt với nhau.
Ký họa chân dung nhà thơ Trần Ngọc Mỹ của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Nhủ lòng vượt lên những phôi pha

Một người làm thơ trẻ thông thường hay lựa chọn một cách thế sống cùng, sống giữa, đồng hành với thế hệ mình và với đời sống hôm nay trong tất cả sự bề bộn, phức tạp và sống động của nó.
Ký họa chân dung nhà thơ Phạm Thị Ngọc Liên của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Phạm Thị Ngọc Liên: Người đi tìm chân dung tình yêu

Tròn 20 năm, nữ thi sĩ Phạm Thị Ngọc Liên mới trở lại thi đàn bằng tập thơ dày dặn mang tên “Trong tôi có nhiều tôi” (Nhà xuất bản Hội Nhà văn). 99 bài thơ kết thành một “con đường thơ” với biển chỉ đường là “Tình yêu”. Phải, tất cả đều là thơ Tình, của một người đàn bà hồn nhiên, đa đoan, sẵn sàng “nhắm mắt đi trên cầu thăng bằng/ nồng nàn/ liều lĩnh” để tìm cho được chân dung của Tình yêu, hay là chân dung thân phận con người.
Ký họa chân dung nhà thơ Thy Nguyên của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Thy Nguyên - Người đàn bà làm thơ buồn

Thơ gắn với buồn từ khi nào, có lẽ từ lúc thơ bắt đầu. Buồn là một phẩm chất của thơ, là một phẩm chất của đời sống con người vốn mong manh hữu hạn, nhiều bất toại hơn như ý. Người cầm bút tìm đến thơ như một cách để cất giấu, lại như một cách để phơi bày nỗi buồn trên mặt giấy. Ðể tìm kiếm một sự đồng cảm, tìm kiếm tri âm. Thy Nguyên là kiểu người làm thơ như vậy, “chơi” với buồn, và “phơi” nỗi buồn, không đắn đo giấu giếm.
Ký họa chân dung nhà thơ Nguyễn Hồng của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Thơ của những xuân thì

Nguyễn Hồng là một cái tên dường như đã quen trong đời sống văn học hiện thời. Chị khá chắc tay trong nhiều thể loại: truyện ngắn, tản văn, thơ. Riêng với thơ, chị đã cho in tập “Ví dụ anh” (2016), và đã đăng rải rác khá nhiều bài thơ lẻ trên các phương tiện truyền thông đại chúng. Một dáng vóc thơ dần được định hình...
Minh họa trang thơ: ĐẶNG TIẾN

Trang thơ

Nhân Dân hằng tháng xin giới thiệu cùng độc giả trang thơ Tết.
Ký họa chân dung nhà thơ Phùng Khắc Bắc của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường

Phùng Khắc Bắc, "Một chấm xanh"

Vào quãng năm đầu thập kỷ chín mươi của thế kỷ trước, khi đang làm nghiên cứu sinh ở Đại học Sư phạm Hà Nội, tôi thấy trong văn giới xôn xao bàn tán về một tài thơ rất lạ mới có 47 tuổi vừa mới khuất. Đó là nhà thơ Phùng Khắc Bắc, tác giả tập thơ duy nhất mang tên “Một chấm xanh” do NXB Quân đội nhân dân phát hành cuối năm 1991.
Ký họa chân dung nhà thơ Nguyễn Hoàng Sơn của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Nguyễn Hoàng Sơn, thơ viết cho thiếu nhi và...

Bạn đọc yêu thơ ngay từ thập niên 80 của thế kỷ XX đã biết đến một cây bút viết thơ cho thiếu nhi mang tên Nguyễn Hoàng Sơn. Lúc ấy, thơ viết cho thiếu nhi nổi bật nhất vẫn là một số cây bút quen thuộc, thế hệ đàn anh như Võ Quảng, Phạm Hổ, Định Hải... Cái tên Nguyễn Hoàng Sơn cùng vài cây bút thế hệ anh như Phạm Đình Ân, Trương Hữu Lợi, Mai Văn Hai... mới bắt đầu thấp thoáng.
Ký họa chân dung thi sĩ Văn Cao của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Văn Cao: "Ngày đêm làm ngọc"

Trong các ấn phẩm về thơ Văn Cao đã xuất bản, chỉ thấy chừng chưa đến mươi bài thơ được viết từ năm 1939 đến năm 1942.
Ký họa chân dung nhà thơ Nguyễn Thị Thúy Hạnh của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Nguyễn Thị Thúy Hạnh: Làm thơ, làm chữ

Trong số những nhà thơ trẻ (xuất hiện ở độ tuổi dưới 35) hiện nay, có một số cây bút rất quan tâm đến việc đổi mới thơ theo cách bắt đầu bằng việc dụng chữ, làm chữ, biến/đổi chữ. Nguyễn Thị Thúy Hạnh là một cây bút như vậy, ngay từ đầu, nhất quán và công khai tư duy về chữ, “di chữ”, “sống lời”, đã xác lập một quan niệm về thơ lấy chữ/ngôn ngữ làm trung tâm.
Ký họa chân dung nhà thơ Phạm Công Trứ của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Nhà thơ Phạm Công Trứ: Tựa vào những câu thơ hay

Trong truyền thống, nhất là với thơ trung đại, người đọc thơ thường hay chú ý đến những câu chữ được coi là tuyệt bút trong bài: những “nhãn tự”, “thần cú”... Cách nhìn này, khi bước sang văn học hiện đại vẫn được chú ý, nhưng không còn là duy nhất, cuối cùng.
Ký họa chân dung nhà thơ Bạch Diệp của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường

Nỗi đồng vọng xôn xao

Quan sát những người “dính” vào chốn thơ, thấy họ làm thơ với rất nhiều động cơ khác nhau. Những động cơ ấy có khi rõ rệt, có khi mơ hồ; có khi thiết thực, có khi lại vu vơ; có thể người thơ ý thức rõ công việc mình làm, có khi cứ viết như một thôi thúc bên trong không cưỡng được...