Phát triển kinh tế từ cỏ năn tượng

Giữa vùng đất mặn của bán đảo Cà Mau, có một loài cỏ dại âm thầm mọc ven đầm lầy, từng bị bỏ quên, nay đang mở ra một lối đi mới cho sinh kế nông thôn bền vững. Đó là cỏ năn tượng, loại mọc hoang lại đang trở thành chất liệu quý cho một nền thủ công mỹ nghệ và nội thất xanh, thân thiện và có giá trị xuất khẩu.

Người dân đan lát các sản phẩm thủ công từ cỏ năn tượng.
Người dân đan lát các sản phẩm thủ công từ cỏ năn tượng.

Giải pháp phát triển kinh tế thuận thiên

Cỏ năn tượng còn có tên gọi khác là hến biển, thuộc họ lác, tên khoa học là Scirpus littoralis Schrad, là một loài thực vật ngập mặn bản địa. Từ nhiều năm trước, Tiến sĩ Dương Văn Ni, chuyên gia về đa dạng sinh học ở Đồng bằng sông Cửu Long, hiện là Chủ tịch kiêm Giám đốc Quỹ Bảo tồn Mekong (MCF), đã nhìn thấy tiềm năng rất riêng của loại cỏ này. Không chỉ có sức sống bền bỉ trong môi trường mặn, lợ, mà còn bởi khả năng hỗ trợ sinh thái và phát triển kinh tế từ chính sự khắc nghiệt của thiên nhiên.

Điểm độc đáo của cây năn tượng là thân rỗng, có khả năng dẫn khí oxy từ không khí xuống rễ, giúp ôxi hóa lớp bùn đất bên dưới, tạo điều kiện cho vi sinh vật có lợi phát triển, hạn chế rong tảo gây hại.

Khi kết hợp trồng năn tượng với nuôi tôm, cua quảng canh, môi trường nuôi tự nhiên được cải thiện, tôm lớn nhanh hơn, ít dịch bệnh hơn. Đây chính là “sự hòa hợp thuận thiên”, tận dụng tài nguyên sẵn có thay vì áp đặt ý chí con người.

Tại Đồng bằng sông Cửu Long, xung đột giữa nước mặn và nước ngọt là câu chuyện tồn tại hàng thập kỷ. Có nơi, người dân đắp đê giữ ngọt để trồng lúa, có nơi lại phải phá đê lấy mặn nuôi tôm. Nhưng kể từ khi Nghị quyết 120/NQ-CP ngày 17/11/2017 của Chính phủ về phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long được ban hành, một hướng đi mới đã hình thành: sống hài hòa với tự nhiên thay vì đối đầu với nó.

Trong tư duy đó, cây năn tượng, một loài cỏ mọc hoang ven đầm lầy được coi như một giải pháp để phát triển kinh tế. Cỏ năn tượng không cần phân bón hay thuốc bảo vệ thực vật, sống khỏe trên đất mặn, giúp cải tạo đất, phù hợp để kết hợp với mô hình nuôi tôm-cua quảng canh, tạo nên hệ sinh thái canh tác khép kín, giảm rủi ro dịch bệnh và nâng cao năng suất tự nhiên.

Tại huyện Mỹ Xuyên (tỉnh Sóc Trăng), mô hình trồng và khai thác năn tượng do Quỹ Bảo tồn Mekong phối hợp cùng Công ty VietnamHousewares triển khai, ban đầu chỉ vài chục hộ tham gia, nay đã mở rộng lên hàng trăm hộ. Chỉ với 1 công đất (khoảng 1.000m²), mỗi vụ người dân có thể thu hoạch khoảng 2 tấn cỏ tươi, sau phơi còn 1 tấn khô, gần như không tốn chi phí đầu vào.

Từ nguồn nguyên liệu cỏ năn tượng, qua bàn tay của người nông dân, chủ yếu là phụ nữ đan thành giỏ, túi, khay… Mỗi tuần, một người có thể kiếm thêm từ 400.000 đến 500.000 đồng, một khoản thu nhập tuy nhỏ ở đô thị nhưng đáng kể và bền vững đối với vùng nông thôn sâu xa.

Từ những thành công bước đầu, mô hình phát triển kinh tế từ cây năn tượng tiếp tục lan rộng. Hội Phụ nữ huyện Mỹ Xuyên đã tổ chức hàng chục tổ hợp tác đan lát, sản xuất hàng nghìn sản phẩm thủ công mỗi tuần. Mô hình không chỉ góp phần cải thiện sinh kế, mà còn gìn giữ và phát huy kỹ nghệ thủ công truyền thống của người dân Đồng bằng sông Cửu Long.

Hiện nay, Công ty VietnamHousewares đang xây dựng chuỗi cung ứng khép kín: từ vùng nguyên liệu, phơi sấy, chế tác tại chỗ, điều phối logistics tại Sóc Trăng, đến nhà máy đóng gói chuẩn hóa tại Bình Dương.

Từ đây, sản phẩm được xuất khẩu sang Hoa Kỳ, Nhật Bản, châu Âu, những thị trường đòi hỏi tiêu chuẩn cao về nguồn gốc sinh thái, lao động công bằng và chứng nhận chuỗi cung ứng.

4a-5015.jpg
Các sản phẩm từ cỏ năn tượng.

Tiềm năng lớn cần được đánh thức

Trong bối cảnh thế giới đang hướng đến các nguồn vật liệu sinh học, tái tạo và có thể truy xuất nguồn gốc rõ ràng, cỏ năn tượng đang lặng lẽ mở ra một cơ hội lớn cho Việt Nam, đặc biệt là ngành thủ công mỹ nghệ và nội thất xuất khẩu.

Ông Trần Lam Sơn, Phó Tổng giám đốc Công ty Thiên Minh Furniture, đơn vị đã xuất khẩu thành công nhiều dòng sản phẩm xanh ra châu Âu và Bắc Mỹ đánh giá: “Nếu vùng Đồng bằng sông Cửu Long có thể phát triển được 1 triệu héc-ta cỏ năn tượng, mỗi năm chúng ta sẽ có thể thu hoạch khoảng 10 triệu tấn nguyên liệu. Với giá thành chỉ bằng 2/3 lục bình, khả năng chống mối mọt tự nhiên do sinh trưởng ở vùng nước mặn và dễ dàng đạt chuẩn chứng chỉ FSC, cỏ năn tượng có thể tạo ra một ngành nguyên liệu chiến lược trị giá lên tới hơn 9 tỷ USD mỗi năm.”

Hiện tại, phần lớn vật liệu mây tre hoặc lục bình vẫn phải phụ thuộc vào vùng trồng nhỏ lẻ và thiếu ổn định về chất lượng. Trong khi đó, cỏ năn tượng, nhờ khả năng tự nhiên chống sâu bệnh, không cần phân thuốc hoàn toàn phù hợp với tiêu chuẩn xanh quốc tế như FSC, ISO 14000, hay EUDR (Quy định chống mất rừng do tiêu dùng của Liên minh châu Âu).

Theo Hội Mỹ nghệ và Chế biến gỗ Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng bằng sông Cửu Long đang đứng trước cơ hội mở một ngành nguyên liệu mới, đúng nghĩa nguyên liệu gốc Việt. Nếu phát triển đúng cách, cỏ năn tượng có thể giúp Việt Nam tự chủ nguồn cung, đi trước các đối thủ trong việc đáp ứng các quy định môi trường ngày càng nghiêm ngặt từ thị trường EU và Hoa Kỳ.”

Không chỉ dừng ở thủ công mỹ nghệ, cỏ năn tượng còn có thể được ứng dụng sâu hơn trong ngành nội thất công nghiệp. Các nhà thiết kế đã từng thử nghiệm kết hợp năn tượng với gỗ tự nhiên để sản xuất bàn ghế, kệ trưng bày, ốp vách, trang trí, tạo nên dòng sản phẩm vừa nhẹ, vừa thẩm mỹ, lại thân thiện môi trường. Ngoài ra, cỏ năn tượng còn có thể được sử dụng để sản xuất viên nén sinh học, bột giấy, hoặc làm vật liệu cách âm, những lĩnh vực hiện đang có nhu cầu tăng trưởng rất cao trong xây dựng xanh và công trình tiết kiệm năng lượng.

Tuy nhiên, để đánh thức tiềm năng này, Việt Nam cần sớm xây dựng vùng nguyên liệu tập trung, có quy hoạch, kết hợp cùng các tổ chức khoa học, hiệp hội ngành hàng và doanh nghiệp dẫn dắt thị trường. Chỉ khi đó, năn tượng mới thực sự vượt khỏi thân phận “cỏ dại” và trở thành một mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng kinh tế xanh quốc gia.

Không chỉ dừng lại ở các doanh nghiệp lớn hay mô hình phát triển vùng nguyên liệu, cỏ năn tượng còn đang trở thành nguồn cảm hứng khởi nghiệp cho nhiều bạn trẻ, đặc biệt là những người mang tinh thần đổi mới và gắn bó với tài nguyên bản địa.

Một trong những gương mặt tiêu biểu là chị Lê Thị Phương Thảo (xã An Phú, tỉnh An Giang), người đã tự học hỏi, thử nghiệm và cho ra đời những bộ sưu tập giỏ, khay, phụ kiện gia dụng mang phong cách hiện đại nhưng đậm chất truyền thống.

Tương tự, công ty Ecoka (thành phố Cần Thơ) đã mở rộng quy mô sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm từ năn tượng kết hợp cùng trải nghiệm du lịch làng nghề, định hướng phát triển thành mô hình NetZero Tour, gắn kết giữa bảo tồn văn hóa, sinh kế địa phương và trách nhiệm môi trường. Câu chuyện của Ecoka không chỉ cho thấy sự sáng tạo của người trẻ, mà còn phản ánh xu hướng mới trong ngành du lịch xanh và tiêu dùng có trách nhiệm.

Có thể bạn quan tâm

Hoạt động khoan lấy mẫu đất trồng cây lâu năm phục vụ nghiên cứu đề tài.

Cơ hội cho mục tiêu Net Zero

Trong khi bài toán giảm phát thải nông nghiệp tập trung vào hạn chế khí metan trong canh tác lúa, một hướng đi khác đang mở ra từ một nghiên cứu mới đây tại đồng bằng sông Hồng do Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia (Nafosted) tài trợ, đó là đất nông nghiệp có thể trở thành “bể chứa” carbon hữu cơ quan trọng.

Phiên thảo luận về cảng biển. (Ảnh: HNV)

Thúc đẩy hợp tác cảng và hàng không thông minh, bền vững Việt Nam-Hà Lan

Chiều 10/11, tại Hà Nội, Hội thảo Logistics Hà Nội 2025 với 2 phiên về cảng biển và hàng không đã thu hút đông đảo các đại biểu cùng tham gia trao đổi kinh nghiệm thực tiễn phát triển bền vững cảng biển và cảng hàng không, các giải pháp logistics sáng tạo và cơ hội mở rộng hợp tác với các đối tác trong ngành của hai nước.

Tiến sĩ Yap Kwong Weng, Giám đốc điều hành (CEO) Việt Nam SuperPort TM.

Đồng hành cùng Việt Nam trong kiến tạo hệ sinh thái logistics xanh-số và bền vững

Là cảng logistics đa phương thức quy mô lớn nằm trên địa bàn tỉnh Phú Thọ, Việt Nam SuperPortTM - liên doanh chiến lược giữa T&T Group và YCH (Singapore) hướng tới kiến tạo hệ sinh thái bền vững, tiên tiến, ứng dụng mạnh mẽ công nghệ hiện đại nhằm nâng cao hiệu quả của hệ thống logistics tại Việt Nam, mở rộng chuỗi cung ứng.

Các dự án điện gió, điện mặt trời phía nam Khánh Hòa tạo nhiều việc làm cho người lao động.

Năng lượng là một trụ cột của Khánh Hòa

Địa bàn tỉnh Khánh Hòa hiện có 72 dự án điện mặt trời, điện gió, thủy điện và nhiệt điện đưa vào vận hành với tổng công suất hơn 5.500MW, sản lượng khoảng 17,95 tỷ kWh/năm. Tỉnh đang tích cực triển khai Đề án thành lập Trung tâm Công nghiệp-dịch vụ năng lượng tái tạo liên vùng tại khu vực phía nam.

Tỉnh Quảng Trị hiện có hơn 2.000ha lúa áp dụng mô hình giảm phát thải khí nhà kính.

Sản xuất xanh, bảo vệ môi trường và lợi ích cộng đồng

Giảm phát thải khí nhà kính đang trở thành yêu cầu bắt buộc trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội. Tại Quảng Trị, cùng với việc thúc đẩy công nghiệp phát triển theo hướng xanh và tiết kiệm năng lượng, tỉnh đang từng bước hình thành các vùng sản xuất nông nghiệp carbon thấp, hướng tới tham gia thị trường tín chỉ carbon.

Tháo gỡ "nút thắt", lộ trình cho kinh tế tuần hoàn

Tháo gỡ "nút thắt", lộ trình cho kinh tế tuần hoàn

Sau khi nhận diện những thách thức trên hành trình phát triển kinh tế tuần hoàn tại Việt Nam, câu hỏi đặt ra là: Chúng ta sẽ làm gì để vượt qua? Từ những người nông dân, các cán bộ địa phương đến các chuyên gia, nhà khoa học và lãnh đạo cấp cao đều có những ý kiến, đề xuất, giải pháp để kinh tế tuần hoàn thực sự cất cánh.

Giải mã "điểm nghẽn" phát triển kinh tế tuần hoàn

Giải mã "điểm nghẽn" phát triển kinh tế tuần hoàn

Từ những trang trại "ba nhà" khép kín ở Đồng bằng sông Cửu Long đến các khu công nghiệp sinh thái đang định hình ở Vùng kinh tế trọng điểm phía nam, những mô hình tiên phong đã và đang chứng minh xu thế phát triển bền vững của kinh tế tuần hoàn.

Đại biểu tham dự hội nghị thẩm định nội dung "Sổ tay hướng dẫn thực hành kinh tế tuần hoàn". (Ảnh: HOÀNG TRUNG)

Vĩnh Long phát triển kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp

Ngày 21/10, tại Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Vĩnh Long, Hội đồng thẩm định nội dung “Sổ tay hướng dẫn thực hành kinh tế tuần hoàn” đã góp ý, thông qua sáu quyển sổ tay hướng dẫn thực hành mô hình kinh tế tuần hoàn đối với các chuỗi nông nghiệp, thủy sản chủ lực gồm: xoài, dừa, gà, bò, tôm và lúa-tôm.