Những thách thức bảo tồn
Năm 2004, khi Việt Nam đệ trình hồ sơ Không gian văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên lên Ủy ban Liên Chính phủ Công ước 2003 của UNESCO, đồng bào vẫn thường xuyên thực hành di sản của mình trong các lễ hội, nghi lễ, các sự kiện văn hóa nghệ thuật.
Cố GS, TSKH Tô Ngọc Thanh từng cho rằng: Việc tổ chức sự kiện biểu diễn cồng chiêng là cần thiết, nhưng cần lồng ghép cồng chiêng trong dòng chảy văn hóa tự nhiên, trong đời sống hằng ngày của cộng đồng - nơi tiếng chiêng cất lên vì niềm tin, vì nghi lễ, vì cộng cảm buôn làng và vì sự nối dài bản sắc, chứ không chỉ vì mục tiêu trình diễn cho du khách hay các lễ hội mang tính chất sự kiện văn hóa, bởi cồng chiêng là “di sản sống”, và bởi ở Tây Nguyên “đời người dài theo tiếng chiêng”.
Niềm tin văn hóa, ý nghĩa tâm linh của cồng chiêng đã suy giảm nhiều do nhiều biến đổi kinh tế-xã hội: Thay đổi cây trồng - từ cây nông nghiệp ngắn ngày sang cây công nghiệp dài ngày; thay đổi phương thức canh tác - từ nương rẫy sang trang trại; do tác động của đô thị hóa; do thay đổi lối sống và tín ngưỡng từ trong cộng đồng. Kinh tế thị trường, văn hóa của tộc người đa số và các xu hướng văn hóa ngoại lai tác động tiêu cực, làm thu hẹp không gian thiêng, thu hẹp môi trường diễn xướng, làm mờ bản sắc truyền thống của các tộc người thiểu số ở Tây Nguyên.
Từ vị trí linh thiêng - là phương tiện giao tiếp với thần linh trong đời sống tâm linh, cồng chiêng và nghi lễ thực hành đã trở thành “đạo cụ” phục vụ cho du lịch - vốn mang nặng tính giải trí, nhưng lại thu được tiền nhanh và nhiều hơn. Cùng với đó, việc du nhập và phát triển nhanh của tôn giáo mới trong những năm gần đây đã tác động mạnh đến tập tục, lễ nghi và quan niệm tâm linh cũ của cộng đồng bản địa. Trước kia, làng nào cũng có cồng chiêng. Nay ở những nơi có đông người theo tôn giáo mới, số lượng cồng chiêng đã giảm nhiều và những nghi thức cũ không còn thiêng liêng nữa, thậm chí nhiều làng không còn cồng chiêng. Những điều “tất nhiên sẽ đến” này đã được ghi nhận[1].
Nỗ lực bảo tồn nhưng còn nhiều việc phải làm
Các địa phương đã hỗ trợ, trang bị cồng chiêng, trang phục cho các câu lạc bộ, đội văn nghệ cộng đồng. Những con số tốt đã tăng lên thể hiện nỗ lực giữ gìn di sản. Cũng với cố gắng quảng bá và củng cố di sản, số lớp truyền dạy trình diễn và chỉnh chiêng được lồng ghép trong “Chương trình Mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế xã hội đồng bào dân tộc thiểu số” cũng tăng lên trong thời gian gần đây. Qua hai đợt xét tặng danh hiệu năm 2015 và 2019, vùng Tây Nguyên đã có 134 Nghệ nhân ưu tú, 1 Nghệ nhân nhân dân. Đó là “nguồn vốn” quý cho ngành văn hóa cố gắng gây dựng đội ngũ kế cận thực hành di sản trong cộng đồng.
Các địa phương đang cố gắng khôi phục, làm sống lại các không gian văn hóa là môi trường diễn xướng của cồng chiêng như Lễ cúng cầu mưa, Lễ kết nghĩa anh em của người Ê Đê; Lễ cúng Ché, Lễ cúng mừng lúa mới và trình diễn đúc chiêng. Rồi lễ hội Tằm Jun - Dyun Jông - Lễ kết nghĩa của dân tộc Mạ; Lễ mừng nhà rông mới của người Ba Na…
Theo nhà nghiên cứu Bùi Trọng Hiền, Viện Văn hóa, Nghệ thuật, Thể thao và Du lịch Việt Nam: Dàn cồng chiêng là “dàn nhạc hợp tấu, mỗi chiêng thành viên chỉ là một nốt nhạc, nhiều chiếc hợp lại trong từng sơ đồ tiết tấu riêng mới cho ra một bản nhạc hoàn chỉnh”. Các nghi thức, nghi lễ, phong tục tập quán, trang phục, ẩm thực truyền thống, tri thức dân gian, không gian kiến trúc, môi trường thiên nhiên gắn bó với âm nhạc cồng chiêng cũng cần được trân trọng bảo tồn. Những thành tố văn hóa đó cũng là từng nốt nhạc để hợp thành bản hòa âm hoàn chỉnh và sống động mang tên Di sản văn hóa phi vật thể Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên. Âm nhạc cồng chiêng cần được duy trì, trao truyền và tái tạo một cách tự nhiên trong chỉnh thể môi trường sinh thái - nhân văn, nơi cộng đồng chủ thể sở hữu di sản đang/đã sống hằng ngày, hằng năm, hàng thế hệ với những thang âm không thể thiếu, không thể thay.
Di sản Cồng chiêng chỉ thật sự sống trong không gian văn hóa của mình, được gìn giữ bằng chính bàn tay và sự vận động văn hóa của cộng đồng như một dòng chảy liên tục và sáng tạo để giữ được tính đặc sắc trong bức tranh đa sắc của văn hóa Việt Nam. Sự hỗ trợ di sản hiện hữu qua phát triển sinh kế cho cộng đồng song hành với bảo tồn truyền thống. Di sản Không gian văn hóa cồng chiêng được bảo vệ như thế, có thể trở thành một mô hình tốt khi nói về thực hiện quan điểm “di sản sống” gắn với phát triển bền vững theo tinh thần Công ước 2003 của UNESCO.
[1] Báo cáo định kỳ quốc gia gửi UNESCO (các năm 2017, 2024) - Tư liệu Cục Di sản văn hóa, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.