Người ta nói rằng, batik gắn với cuộc đời của người Indonesia từ lúc trong bụng mẹ tới lúc trở về với đất. Theo truyền thống, khi người phụ nữ mang thai đến tháng thứ bảy, sẽ có lễ Mitoni (hay còn gọi là Tingkeban) để cầu mong sinh nở thuận lợi mà ở đó những trang phục batik không thể thiếu. Khi đứa trẻ chào đời, những bộ quần áo hay chiếc khăn địu trẻ từ vải batik với các họa tiết mang ý nghĩa tượng trưng cho sự phát triển, vẻ đẹp sẽ theo đứa bé trong suốt những tháng ngày sau đó. Trong lễ đánh dấu lần chạm đất đầu tiên của đứa trẻ, tấm vải batik truyền thống của gia đình trải trên đất sẽ là vật đầu tiên mà bàn chân đứa bé chạm vào. Đến khi trưởng thành, trong lễ cưới truyền thống, cô dâu, chú rể và gia đình hai bên cũng đều mặc trang phục bằng vải batik. Và cho đến khi trở về với đất mẹ, tấm vải batik quấn quanh người đã mất cùng họ yên nghỉ nơi vĩnh hằng. Tùy theo từng mục đích sử dụng, sẽ có các mô-típ batik tương ứng. Dựa trên những mô-típ batik truyền thống, theo thời gian và sự sáng tạo không ngừng của nhiều thế hệ người Indonesia đã tạo ra khoảng 3.000 mô-típ batik.
Đối với một vùng đất cổ như Yogyakarta, nằm ở miền trung đảo Java, nơi được coi là một trong những cái nôi của batik truyền thống, batik là một phần không thể thiếu trong cuộc sống thường nhật của người dân. Batik thậm chí còn trở thành một môn học nghệ thuật của học sinh ở đây với hai đến bốn tiếng mỗi tuần để học về cách làm batik và tạo ra các sản phẩm nghệ thuật từ batik. Cứ đến cuối tuần, Bảo tàng batik Yogyakarta lại mở cửa miễn phí cho công chúng vào tham quan và học cách làm batik.
Chị Ngadiningsih và những người thợ trong xưởng sản xuất batik truyền thống.
Lần đầu tiên đặt chân tới thành phố này, dù đã đọc trước về lịch sử và văn hóa của thành phố, tôi vẫn không khỏi ngỡ ngàng trước một thành phố “ngập” trong batik. Ở đây không chỉ nói tới sự hiện diện của các sản phẩm batik như quần áo, đồ dùng được người dân sử dụng hằng ngày, hay đồ lưu niệm được bày bán khắp nơi, mà hơn hết đó là niềm tự hào về batik truyền thống dường như thấm đẫm trong mỗi người dân nơi đây.
Bất cứ người nào bạn gặp từ một em học sinh, người lái taxi, nhân viên khách sạn, người làm vườn trong dinh Tổng thống đều có thể nói không dứt về batik, và nhiệt tình giới thiệu cho bạn cách lựa chọn đúng một sản phẩm batik truyền thống của Yogyakarta. Trước một thành phố tràn ngập cửa hàng batik, băn khoăn không biết cách nào để chọn được đúng một chiếc áo batik đặc trưng của vùng Jogja (Yogyakarta theo cách gọi địa phương), anh lái xe taxi tên Rudy vui vẻ “truyền bí kíp”: “Đơn giản thế này thôi, batik đặc trưng của Jogja là batik được vẽ tay trên vải cotton, vải sẽ dày hơn batik in công nghiệp, và mỗi họa tiết chỉ có một hay hai chiếc, ít cái giống nhau lắm. Mầu sắc batik truyền thống của Jogja chỉ có đen, nâu, trắng và lam”.
Lang thang dọc con phố chính Malioboro san sát các cửa hàng thời trang batik, đồ lưu niệm làm từ batik từ cao cấp tới bình dân. Tại cửa hàng đồ batik lớn nhất phố, khách du lịch thích thú khi được tận mắt thấy thợ batik đang vẽ các họa tiết bằng sáp ong nóng chảy (công đoạn này được gọi là “canting”, bước đầu tiên để tạo ra một mảnh vải batik). Chị Ngadiningsih, người đã tập làm nghề từ lúc mới tám tuổi, miệt mài, khéo léo đưa nhẹ chiếc bút canting (dụng cụ vẽ batik có một đầu như ngòi bút, bên trên có gắn một cái phễu nhỏ đựng sáp ong chảy) nói: “Để hoàn thành bản vẽ sáp ong trên tấm vải dài 2m với những họa tiết đơn giản phải mất ba tuần, nếu bản vẽ nhiều chi tiết hơn, công đoạn vẽ có thể kéo dài ít nhất bốn tuần. Và phải mất ít nhất một tháng để cho ra đời một tấm vải batik hoàn thiện, có những tấm vải phải mất tới một năm với nhiều người cùng tham gia”.
Người ta ví von rằng, việc tạo ra một sản phẩm batik như là cách thiền định. Nếu không “tập thiền”, hòa mình vào công việc, người thợ batik khó có thể tạo ra các họa tiết giống nhau chính xác được. Để hoàn thiện một sản phẩm batik hoàn hảo, không những đòi hỏi người thợ phải có kỹ năng chuẩn xác từ công đoạn vẽ họa tiết đầu tiên bằng sáp ong nóng chảy, đến công đoạn nhuộm, tẩy cuối cùng mà còn đòi hỏi tính kiên nhẫn và sự tập trung cao độ. Có như vậy, người thợ mới có thể kiểm soát được lượng sáp ong trên vải, hay lượng mầu được nhuộm, tẩy bởi tất cả công đoạn đều hoàn toàn thủ công.
Tỉ mỉ, công phu là vậy nên nghệ thuật làm batik thường được truyền từ đời này qua đời khác, cùng với tình yêu và niềm tự hào về batik. Vừa dẫn tôi đi tham quan quy trình sản xuất ra một tấm vải batik ở xưởng Winotosastro, chị Suratiti, quản lý xưởng vừa giới thiệu, “Chúng tôi là một công ty truyền thống có năm thế hệ làm batik, nếu không có tình yêu và niềm đam mê với batik, công ty cũng không thể phát triển như ngày nay sau trận động đất kinh hoàng năm 2006 khiến toàn bộ nhà xưởng bị san bằng. Giờ thì chúng tôi đã có những sản phẩm batik xuất khẩu tới một số nước trong khu vực, châu Âu và Mỹ”. Ở xưởng này, có những người thợ đã gắn bó với nghề truyền thống hơn 30 năm, người mới nhất cũng đã gần 10 năm. Kế thừa kỹ năng và tình yêu với batik từ gia đình nhiều thế hệ, thế nên, dù thu nhập chỉ đủ cho cuộc sống hằng ngày (khoảng ba đến bốn triệu rupiah/ tháng), họ vẫn gắn bó với chiếc bút canting để tạo ra những sản phẩm batik nguyên bản và đưa chúng ra thế giới. Nhưng cũng như các sản phẩm truyền thống khác, batik hiện đang phải cạnh tranh gay gắt với các sản phẩm từ batik in máy công nghiệp giá cả rẻ, nhiều mẫu mã hiện đại hợp với mọi nhu cầu của người dân. Trong khi đó, batik truyền thống có giá thành rất cao, kén người sử dụng: mức giá thấp nhất khoảng 500 nghìn rupiah (tương đương 800 nghìn VND) cho một chiếc áo sơ-mi từ vải batik được canting bằng bản khắc gỗ hoặc sắt thay cho công đoạn vẽ tay, và lên tới vài triệu hoặc vài chục triệu rupiah với batik vẽ tay hoàn toàn...
Nuôi dưỡng và phát triển tình yêu như người dân Yogyakarta nói riêng và Indonesia nói chung với batik là một cách để gìn giữ và bảo tồn những nét đặc sắc của văn hóa truyền thống trong thời hiện đại. Không chỉ bởi batik là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của UNESCO, mà hơn hết đó là hơi thở, là cuộc sống, là niềm tự hào của mỗi con người nơi đây.
Trong lễ đánh dấu lần chạm đất đầu tiên của đứa trẻ, tấm vải batik truyền thống của gia đình trải trên đất sẽ là vật đầu tiên mà bàn chân đứa bé chạm vào.
Tỉ mỉ, công phu là vậy nên nghệ thuật làm batik thường được truyền từ đời này qua đời khác, cùng với tình yêu và niềm tự hào về batik.